TIN MỪNG VÀ SỰ THA THỨ

G. Hoornaert, SJ

WHĐ (25.02.2023)Trong 5 khổ của
bài ca “Dies irae” (Ngày giận dữ) mà sách lễ Rôma hát vào dịp lễ mồ, có đoạn nhắc
nhớ 2 lần tha thứ của Chúa Giêsu như sau:

“Hỡi Đấng đã tha thứ cho Maria Mađalêna,
và đã khấn nhậm lời người tử tội!
Người cũng trao cho con niềm hy vọng được thứ tha.”

Sách Tin Mừng trình thuật cho chúng ta câu chuyện người con trai hoang
đàng cùng kể lại cho ta chuyện người con gái hư thân. Giữa hai kẻ lầm đường lạc
lối này, thật có lắm điều giống nhau.
 

Chàng ta – người
con hoang đàng – đã từng ăn đồ thừa của loài heo uế tạp. Cô nàng – người con hư
hỏng – cũng đã từng như thế, theo nghĩa luân lý. Phúc Âm thánh Luca ghi lại những
lời này: “Và này, một phụ nữ trong thành, nàng sống một đời phóng đãng … là một
người đàn bà tội lỗi.” (x. Lc 7, 37.39). Cô nàng là người đàn bà nhơ nhuốc mà mỗi
bước đi là một lần lầm lỗi.

Thằng con hoang
đàng rên rỉ: “Tôi chết đói mất”.

Đứa con gái hư thân
cũng kinh qua quy luật sống: “Một tâm hồn chỉ mãi lo tìm kiếm những thức ăn dục
vọng ô trọc sẽ không bao giờ được phỉ tình no thỏa, và cơn đói mãnh liệt thèm
khát hạnh phúc của tâm hồn vẫn không được thỏa mãn.” Cái kinh nghiệm sống này
thì mọi trai hoang đàng, gái hư thân đều thấu rõ …

Chàng trai quyết định:
“Tôi sẽ chỗi dậy”

Cô gái cũng nói: “Từ
đáy sâu nhơ nhớp của mình, tôi sẽ chỗi dậy”

Nàng thiếu nữ này
đã cảm nghiệm sự khả ố của cái nghề hổ nhục của mình. “Tôi sẽ chỗi dậy!” đó là
tiếng thét vang nhất quyết hồi tâm trở về.

“Tôi sẽ đi về cùng
Cha tôi”. Để thốt lên những lời ấy, người trai hoang đàng phải có lòng can đảm
thật sự. Và người nữ hư thân cũng phải can đảm không kém: nàng phải hy sinh từ
bỏ những lợi lộc; nhưng nàng còn can đảm hơn nữa để lướt thắng nỗi sợ phải bị
người đời đoán xét, để lướt thắng mãnh lực của tật xấu thói quen. Và trên hết,
nếu không can đảm, làm sao nàng ta dám đến trình diện Đấng-Rất-Trong-Sạch-và-Rất-Thánh?

Người con hoang
đàng từ xa về, áo quần tơi tả. Người con gái hư thân ấy từ rất xa trở về, tâm hồn
rách nát. Cha của người trai hoang đàng là người quảng đại nhất: khi hối nhân
“còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy nó, và chạnh lòng thương, ông chạy đến
ôm quàng cổ nó” (Lc.15, 20); khi săn đón đứa con vô ơn, ông la lên: “Tôi đã tìm
thấy con tôi!”. Và ông cười, ông khóc; rồi ông cho đứa con bất trung ấy nào nhẫn
mới, nào giày dép mới, nào quần đẹp áo xinh và luôn cả quyền thừa tự nữa!

Cha của người con
gái hư thân còn làm hơn thế nữa: nhẫn cưới thiêng liêng, áo trắng tinh sạch, quyền
thừa hưởng Nước Trời!

Sự tha thứ hoàn
toàn và ngay tức khắc xảy ra nhanh đến nỗi không còn có thời gian để lên án những
lần vấp ngã đáng thương.

Những ô nhục xưa
nay đã qua rồi!. . .

Ôi! Đáng kính thay
quả tim người Cha!. . .

Và sự cưng chiều của
người cha đối với đứa con hoang trở về nhiều đến nỗi người anh cả phải lên tiếng
phân bì trách móc …

Và lòng khoan dung
của người cha đối với đứa con gái hư thân lớn lao quá, đến nỗi trong cử tọa
đang hiện diện, người ta phải phản đối cự tuyệt …

Người cha trong
Phúc Âm đã bảo vệ đứa con khốn khổ của mình.

Và Chúa của Phúc Âm
đã bảo vệ người con gái đáng thương của mình.

Không có bản trình
thuật hay lời chú giải nào có giá trị cho bằng lời kể đơn sơ thâm thuý của Phúc
Âm:

“Có người biệt phái kia mời Ngài đến dùng bữa với mình.
Ngài vào nhà người biệt phái, và lên giường ăn. Và này, một phụ nữ, một người tội
lỗi trong châu thành. biết Ngài dùng bữa tại nhà người biệt phái, bà xách theo
một bình bạch ngọc chứa dầu thơm. Đứng phía sau đằng chân Ngài, bà khóc nức nở,
sa nước mắt ướt đẫm chân Ngài. Xoã tóc trên đầu, bà cố lau sạch. Và tha thiết
hôn chân Ngài cùng xức dầu thơm.

Thấy vậy, người biệt phái đã mời Ngài thầm nhủ: “Ông này,
nếu quả thật là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sờ đến mình kia là ai, và thuộc
hạng người nào chứ: đó là một con tội lỗi!”

Đáp lại, Chúa Giêsu nói cùng ông: “Này Simon, tôi có một
điều muốn nói với ông”. Ông thưa: “Thưa Thầy, xin cứ bảo”. – “Hai người cùng mắc
nợ một chủ kia, người nợ 500 đồng quan, người kia 50 quan. Bởi họ không có gì để
trả nợ, nên chủ kia đã tha bổng cho cả hai. Vậy, trong hai người mắc nợ ấy, ai
sẽ cảm mến ông chủ hơn?”. Đáp lại, Simon nói: “Tôi thiết tưởng là người được chủ
tha bổng nhiều hơn”. Và Ngài nói với Simon: “Ông đã xét cách chí lý”. Quay lại
phía người phụ nữ, Ngài nói tiếp với ông ta: “Ông thấy người phụ nữ này chứ?
Tôi vào nhà ông, ông không đích thân dội nước chân tôi; còn bà này lại lấy nước
mắt mà tưới đẫm chân tôi, rồi dùng tóc mình mà lau sạch. Ông không hôn chào
tôi; còn bà này, từ lúc vào, không ngớt tha thiết hôn chân tôi. Đầu tôi, một
chút dầu, ông cũng không xức; còn bà này, bà lấy thuốc thơm mà xức chân tôi.

Nhân vì thế, tôi bảo ông: Các tội của bà này, dù nhiều tội
lắm, nhưng quả đã được tha rồi vì bà đã cảm mến nhiều. Ai được tha ít, cảm mến
ít!”. Rồi Ngài nói với bà kia: “Tội lỗi của ngươi đã được tha!”. Các kẻ đồng
bàn mới nghĩ trong lòng họ: “Ông này là ai mà dám tha tội nhỉ?”.

Nhưng Ngài nói cùng người phụ nữ: “Lòng tin của ngươi đã
cứu chữa ngươi. Hãy đi bằng yên!” (Lc 7, 36 – 50)

Đức Kitô ban tặng
cho Maria Mađalêna một lời khen bằng ba lần khen: một lần khen
cách cư xử của bà: “Ông thấy bà này chứ?
…”; một lần khen
tình mến của bà: “Bà đã yêu nhiều!”; và một lần khen lòng tin của bà: “Đức tin con đã cứu con
…”. Khi đọc Phúc Âm, người ta nhận thấy Mađalêna đã không nói gì cả (hoặc chỉ
nói rất ít mà thôi). Những nỗi đau lớn lao thường lại câm nín. Vả lại, có gì tốt
hơn là tự buộc tội mình trước Đấng hằng tinh thông tất cả mọi sự?

Mađalêna lui ra như
lúc đi vào, cách thinh lặng âm thầm.

Bà đã không nói gì
nhưng bà đã khóc nhiều: ôi những giọt lệ làm cho sống lại!

“Từ thuở ban đầu của thế giới,
không bao giờ
có những giọt nước mắt rơi xuống chân Con-Người như thế!
Đây là lần đầu tiên
lòng hối cải lau chân Con-Người trong thinh lặng
và chảy những giọt lệ khả dĩ chuộc lại một cuộc đời.
Trong suối lệ thống hối, Mađalêna đã xoã tóc
và kết những bím tóc thành dụng cụ của lòng ăn năn:
bà đã lau sạch những giọt nước mắt rơi trên bàn chân đáng
kính ấy.
 

“Và khi bà mở bình bạch ngọc …
cả nhà đầy hương thơm tốt lành;
hương thơm phát xuất từ bình bạch ngọc mỏng giòn,
hương thơm phát xuất từ tấm linh hồn bất tử của bà … 

“Hỡi những giọt nước mắt của người nữ tội lỗi trở lại;
Hỡi những bím tóc phủ trên chân Đấng Cứu Thoát;
Hỡi những nụ hôn dịu dàng
và cay đắng của lòng thống hối,
Các bạn không vô ích đâu,
Bởi vì,
một Maria-Khác đã được nâng lên!” (Lm. Lacordaire,
Marie-Madeleine.)

“Ôi Giêsu,
niềm hy vọng của người sám hối,
Chúa đón nhận những ai cầu khẩn Chúa
và nhân lành với những kẻ kiếm tìm Người.” (Jesu dulcis
memoria)

Một cảnh khác: “Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ
tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a”

(Lc 10, 38-39).

Người cha của đứa
con trai hoang đàng đã bênh vực em trai trước mặt anh mình.

Cha của thân gái hư
hỏng đã bênh vực nàng trước mặt chị mình.

Người không chịu nỗi
khi thấy thiên hạ tấn công nàng. Người luôn giữ nàng dưới sự bảo hộ của Người.
Một dịp mới xảy ra và thánh Gioan đã kể lại chi tiết câu chuyện có tên là “Xức
dầu lần thứ hai”:

“Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng
Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Ở
đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh
La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. Cô Ma-ri-a lấy một
cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc
mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói:

“Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người
nghèo?” Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp:
Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ
chung. Đức Giê-su nói: “Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý
dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc
nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu”. (Ga 12, 1-8).

Thánh Matthêu thêm
vào lời nói của Đức Giêsu:
“Thầy bảo thật
anh em: Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người
ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô”. (Mt 26, 13)

“Tại thế gian này,
bao lâu người ta rao giảng Tin Mừng – có nghĩa là mãi mãi – người ta cũng sẽ
nói đến Maria Mađalêna, người phụ nữ tội lỗi thành Magdala, nhờ cuộc hồi sinh
luân lý tuyệt vời, đã trở nên một đại thánh của Phúc âm – người con được nuông
chìu của Chúa chúng ta.

… Maria Mađalêna là
“tội lỗi biến thành Tình yêu nhờ lòng thống hối. Ôi, đáng quý biết bao những lời
đã nói đến người phụ nữ này. Và đáng trọng thay miệng lưỡi đã thốt ra những lời
ấy! Mỗi lời nói ra ấy là mỗi một vì sao không hề phai nhạt trên vầng trán người
thiếu phụ tội lỗi này.” (Lm Lacordaire, Marie –Madeleine).

“Những người thu thuế và tội lỗi sẽ vào Nước Thiên Chúa
trước các ngươi.” (Mt 21, 31)

Maria Mađalêna tiêu
biểu cho sự ăn năn hối cải trong Tân Ước như vua thánh David là tiêu biểu cho
lòng sám hối ăn năn trong Cựu Ước vậy.

David … đang ở tột
đỉnh vinh quang thịnh vượng; được hưởng phúc trọng của Thiên Chúa hơn cả
Abraham, Isaac và Jacob; được tiền định là tổ phụ của Đấng Kitô, bỗng chốc lại
sa ngã trong nhục dục, trả thù và giết người!

Thật là một sự vấp
ngã hồng phúc! Bởi vì nó đã làm cho ông vua tội lỗi ấy trở thành vị vua bất tử
của lòng thống hối; và bởi vì nó đã cho chúng ta – là những tội nhân tiếp sau
David – những thánh vịnh là những giọt lệ khóc thương tội lỗi mình cùng nhiều
cung giọng mang toàn bộ các giọt lệ ấy lên cùng Thiên Chúa!

Vị vua mất danh dự
vì tội ác này lại là cha của những nhân đức …

… “Maria Mađalêna
là một người phụ nữ đơn giản: bà chẳng có chuyện gì khác ngoài chuyện tội lỗi của
bà! Bà không có vương trượng, chẳng có gươm đao, chẳng có thụ cầm, cũng chẳng
có “cái nhìn tiên tri”; bà chỉ là một người đàn bà tội lỗi như trăm ngàn người
tội lỗi khác.

“Trong Phúc Âm, bà
chỉ một lần nói nơi mộ thầy Giêsu, và lời nói của bà chẳng có tiếng vang nào.
Trước hết, bà là người phụ nữ tội lỗi – nghĩa là một hữu thể trong đó sự nhơ
nhuốc đã quá vô phương cứu chữa! Trước thời Chúa Giêsu, không một phụ nữ nào
tàn úa bởi tội lỗi lại trở nên một vĩ nhân được. Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới làm
được việc ấy. Và, trong khi gìn giữ công trình của Ngài, Đức Kitô phải kiên nhẫn
dõi theo người phụ nữ tội lỗi qua năm tháng để giải cứu bà, để hồi sinh bà và
làm cho bà tươi trẻ lại mãi mãi.

“David đã ca vãn thống
hối bằng một bài thơ bất hủ – thánh vịnh 50, tức bài ca Miserere, bài thơ này
đã khiến ông nên bất tử.

Đối với Maria Mađalêna,
bà chỉ có nước mắt.

Ở đây sự đơn sơ quá
lớn lao, và lòng âu yếm quá sâu đậm. Đó là một người đàn bà, người đàn bà đã
trông thấy Thiên Chúa. Khiêm nhu và ẩn kín, sau khi nhận lãnh hồng ân, Maria Mađalêna
đã theo Chúa cho đến thập giá, đến ngôi mộ quạnh hiu của Ngài.” (Lm Lacordaire,
Marie-Madeleine)

Sau cái chết của
mình, Chúa Giêsu vẫn giữ cho Maria Mađalêna những ân huệ riêng: Ngài đã dành
cho bà lần hiện ra đầu tiên của Ngài.
“Sống
lại lúc tảng sáng, ngày thứ nhất trong tuần, trước tiên Ngài hiện ra cho Maria Mađalêna,
kẻ đã được Ngài trừ cho khỏi bảy quỷ.” (Mc. 16, 9).

Lần hiện ra với
Maria Mađalêna được thánh Marcô miêu tả một cách đơn sơ thì lại được thánh
Gioan – vị tông đồ được Chúa yêu riêng, người thường tinh hiểu đặc biệt những
gì là Tình Yêu Tế nhị – thuật lại cách chi tiết:

« Maria đứng sát bên mộ »(Ga 20, 11). Bà cũng đã đứng sát thánh giá, bên cạnh Trinh nữ Maria và thánh Gioan,
thật là một cảnh lạ thường: một tội nhân hoàn lương lại đứng bên cạnh Đấng Vô
Nhiễm và người tông đồ trinh bạch.

Bà đứng đó, bướng bỉnh,
kiên vững; trong khi “các môn đồ Ngài lại trở về nơi họ ở” (Ga 20, 10). Bà thật
trung thành, ít ích kỷ.

« Bà thấy hai
thiên thần » (Ga 20, 12) và “các ngài mặc áo trắng”. Các thiên thần như
không thu hút nỗi sự chú ý của bà, bởi vì, tất cả tâm trí bà đã hoàn toàn quy
hướng về Chúa Giêsu mà thôi.

Và Chúa hiện đến,
nhưng bà không biết đó là Chúa Giêsu. “Đức Giêsu nói cùng bà: Hỡi bà, sao bà
khóc?” (Ga 20, 14 -15). Trong ngày bà ăn năn cải hóa, Chúa đã cho phép bà khóc.
Nhưng nay, khi sự thanh tẩy đã hoàn thành, chỉ còn lại cho bà là Vinh Quang Phục
Sinh thì không cần phải rơi lệ nữa, nếu những giọt lệ ấy không phải là nước mắt
vui mừng.

“Ngỡ là người giữ
vườn, bà nói: “Thưa ông, nếu chính ông đã mang Ngài đi … thì xin nói cho tôi biết
ông đã đặt Ngài ở đâu, tôi sẽ đến cất lấy Ngài” (Ga 20, 15). Không thể được, một
người phụ nữ không thể mang gánh nặng như vậy được! Nhưng, một khi tình yêu
giúp bà chịu được sức nặng ấy thì sao?

Bấy giờ Chúa và bà
gần nhau.

Và chỉ một tiếng
kêu, một tiếng kêu duy nhất, nhưng bao gồm tất cả những cảm tình sâu đậm bao
la: “Maria!” … “Rabboni!”

“Maria!”. Thật đáng
tiếc cho chúng ta hôm nay chỉ còn có mặt chữ, mà không có được giọng nói của
Chúa Giêsu khi thốt lên lời “Maria”! Trong cơn đau khổ, khi có người bạn chí
thiết gọi tên chúng ta với một âm điệu sâu sắc như thấu hiểu nỗi lòng thì dường
như cơn đau ấy đã lùi xa khỏi ta! Và, nếu chính Thiên Chúa – Đấng đã chết cho
chúng ta và đã sống lại vì chúng ta – lại gọi ta bằng cung giọng âu yếm ấy, thì
hạnh phúc cho chúng ta biết là chừng nào! Ồ, Thiên Chúa đâu cần nhiều lời. Ngài
không giống những người quen thói rậm lời nhiều tiếng. Để đánh động tâm hồn con
người, Ngài chỉ cần nói một tiếng!

“Rabboni!”. Bà
Maria Mađalêna cũng không khoác lác đại ngôn. Đối với những tâm hồn càng yêu
nhau thắm thiết chừng nào, thì ngôn từ con người lại càng ngắn ngủi chừng nấy.

Bà đã quỳ sụp xuống.

Thánh Gioan Tông đồ
đã dám tựa đầu vào ngực Chúa vì Ngài trong sạch. Còn bà Maria, chắc hẳn rằng,
bà chỉ muốn tìm quỳ hôn chân Chúa …

Nhưng Đức Kitô nói:
“Đừng động đến Ta!” (Ga 20, 17).

Phải chăng bây giờ
Chúa lại cấm điều mà trước đây Ngài cho phép sao?

Có thể Chúa muốn
nói rằng: “Con đừng ôm chầm lấy chân Ta như thể đây là dịp độc nhất con gặp Ta.
Cha con ta còn gặp nhau nhiều lần – theo ý Ta muốn – cho đến lúc Ta về trời. Và
khi về trời, thì Maria ơi, Ta sẽ còn yêu thương ấp ủ con không bao giờ thôi.”

“Hãy đến với anh em
Ta và nói với chúng …” (Ga 20, 17). Chúa trao cho bà một sứ mệnh cao trọng. Đức
Giêsu đã không trao cho Phêrô, cũng không trao cho Gioan-trong sạch- mà lại
trao cho bà – một nữ tội nhân!

Ôi Giêsu, Quả Tim của
Chúa sao lại thạo việc phục hồi danh dự cho người tội lỗi đến thế! Chúa đã chọn
vị tông đồ đã ba lần chối Chúa để làm người cai quản Hội Thánh Chúa. Chúa lại lựa
chọn và chỉ định người nữ tội lỗi xưa để làm sứ giả bên cạnh các tông đồ.

Và, Maria Mađalêna
đã hoàn thành sứ mạng vinh quang diệu vời ấy: “Maria người Magdala đi đem tin
cho các môn đồ: “Tôi đã thấy Chúa!”, và Ngài đã nói với bà như thế.” (Ga 20,
18)

Lạy Chúa, con biết
rõ rằng: có một người khốn khổ đã bán mình cho sự dữ, người đó chính là con!
Mang thân lạc loài, nó đã dấn bước vào con đường tội lỗi.

Nay, trước mặt Chúa, con còn có những gì?
Ôi, lạy Chúa, con chỉ còn những tàn lụi, hư vô …
nhưng, lạy Chúa con, con tin rằng: trên những tàn lụi ấy,
Chúa sẽ làm mọc lên những hoa tươi mỹ lệ:
hoa tươi của lòng thống hối,
hoa mỹ lệ của tâm tình biết ơn,
như lời tiên tri Ysaia đã nói:
“Đức Yavê đã an ủi Sion,
Người đã an ủi tất cả các cảnh hoang tàn của nó,
Người đã biến sa mạc của nó nên tợ vườn Êđen.
Và vùng hoang giao nên như cánh vườn Yavê.
Ở đó sẽ gặp thấy vui mừng hoan lạc, lời ngợi ca và tiếng
nhạc đàn ca”. (
Is 51, 3)

Đặc tính của tội lỗi
là làm quả tim nên chai cứng khô lì trước mọi khả năng thực hiện những cảm tình
đạo đức. Lạy Chúa, xin Chúa cải thiện “viên đá” này, để từ nó vọt lên dòng suối
thống hối ăn năn.

«Người đập vào tảng đá
làm cho nước chảy ra như thác lũ lan tràn» (Tv 78, 20)

Lạy Đức Kitô của
người trộm trên Thập Giá,

Lạy Đức Kitô của
Maria Mađalêna,
con xin gieo mình
con vào cánh tay âu yếm của Chúa.
Vâng, lạy Chúa, con
đã phạm tội.
Nhưng, lạy Chúa,
với những kẻ đã đạt
đến giới hạn cuối cùng của sự dữ,
Chúa lại thường rất
nhân thứ.
Và người ta hay nói
rằng:
Chúa thích chọn những
gì hư hốt, nhơ nhuốc nhất ở thế gian này
để làm sáng lên cái
rực rỡ của lòng tha thứ của Chúa.
Nên,
lạy Chúa,
khi nhìn thấy một
tên trộm
và một người nữ tội
lỗi
được Chúa hồi sinh
và phục hồi danh dự,
thì có tội nhân nào
dám nói:
“Tội tôi lớn quá,
không thể được tha thứ và xoá hết!” nữa không?
Vì thế,
“Rabboni”, lạy Thầy
Chí Thánh,
con tín thác vào
Ngài.

Antôn Trương Văn Tiến
Dịch theo “L’évangile et le pardon”,
trong
sách A propos de l’évangile
của G.
HOORNAERT, Dòng Tên, trang 344 – 355

Tắt quảng cáo [X]