Đức Cha Allys – Chứng nhân sống động của niềm hy vọng Kitô Giáo
Niềm hy vọng Kitô giáo nơi ngài không phải là lý thuyết, mà là hành động cụ thể trong từng cách sống, từng quyết định, từng nụ cười dành cho tha nhân.
“Chúng ta phải thổi bùng ngọn lửa hy vọng đã được truyền trao cho mình, đồng thời giúp mọi người lấy lại sức mạnh và sự chắc chắn mới để hướng về tương lai với một tinh thần cởi mở, một tâm hồn tín thác, và tầm nhìn rộng lớn.”[1]
Hành trình dâng hiến là một cuộc lội ngược dòng đời. Dẫu biết rằng ơn gọi dâng hiến là một ân ban đặc biệt của Thiên Chúa dành riêng cho một số người, tuy nhiên, trong hành trình này, lắm lúc người tu sĩ cảm thấy bị chùn bước giữa những khó khăn, nghi ngại… Những lúc ấy, nếu không có một ngọn lửa hy vọng được nhen nhúm và sưởi ấm trái tim thì rất có thể, ta sẽ cảm thấy mệt mỏi, quá sức, thậm chí muốn dừng chân bỏ cuộc chơi. Có niềm hy vọng và sống niềm hy vọng Kitô giáo là một thức ăn nuôi dưỡng và giúp cho đời dâng hiến được triển nở mỗi ngày. Thật hạnh phúc cho tôi, là một thành viên của Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, tôi được thừa hưởng một mẫu gương sống động về niềm hy vọng Kitô giáo nơi Đức cha Allys – Đấng Sáng lập Dòng. Cuộc sống của cha đã được dệt nên bởi một chuỗi dài những ngày tháng hy vọng và cuộc sống đó vẫn vang mãi trong lòng con cái ngài.
1. Niềm hy vọng khởi đi từ tiếng gọi truyền giáo
Mang trong mình một nhiệt huyết truyền giáo cháy bỏng, hai tháng sau khi lãnh nhận thiên chức linh mục, vị mục tử trẻ đã rời bỏ quê hương nước Pháp văn minh để lên đường đến Việt Nam khi mới 23 tuổi. Cha Allys đến Việt Nam sau Hiệp ước Giáp Tuất 1874 được kí giữa triều đình Việt và Pháp. Thời bấy giờ, Việt Nam là một đất nước nghèo, đói, chưa ổn định, đầy thử thách. Ngài không biết mình sẽ gặp gì phía trước nhưng vẫn bước đi cách mạnh mẽ với trái tim phó thác và hy vọng nơi tình yêu quan phòng của Chúa. Trong từng bước chân truyền giáo, dù giữa khó khăn và bất trắc, ngài vẫn kiên trì dấn thân, bởi lẽ như thánh Phaolô từng nói: “Tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày đó.” (2 Tm 1,12b). Cha Allys, với tên gọi Việt thân thương: cha Lý, đã chấp nhận điều kiện sống gian khổ, khí hậu khắc nghiệt, thiếu thốn đủ bề… Ngài chấp nhận tất cả chỉ vì niềm hy vọng vào lời của Thiên Chúa đã từng nói với tổ phụ Apraham xưa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1). Khi đến Huế, Đức cha Sohier Bình đặt ngài ở viện Dục Anh coi sóc các trẻ mồ côi, đồng thời làm phó giúp cố Đăng Dangelzer ở Kim Long để học tiếng Việt. Dù gặp trở ngại về ngôn ngữ, văn hóa, bệnh tật… ngài vẫn kiên trì học hỏi, hội nhập và yêu mến dân Việt vì tin vào sứ mạng mà Chúa trao.
2. Niềm hy vọng về sự trổ sinh hoa trái của con dân đất Việt
Khi đến Việt Nam không lâu, cha Allys đã kinh hoàng chứng kiến biến cố đau thương, với chủ trương “Bình Tây sát tả” của nhóm Văn Thân năm 1883. Biến cố này đã đốt cháy hơn 2/3 số nhà thờ của 150 họ đạo, với khoảng 10.500 tín hữu bị thiêu sống trong nhà thờ và bị chém giết trên đường[2]. Một biến cố đầy máu và nước mắt từ các vị chủ chăn cho đến đoàn chiên. Tuy vậy, cha Allys tin rằng Chúa nhân lành sẽ quan phòng mọi sự, rằng Giáo hội tại Việt Nam có thể phát triển từ chính người Việt. Dù lúc ấy đa số tín hữu còn rất nghèo và chưa được học hành nhiều. Ngài đầu tư nhiều vào việc đào tạo giáo sĩ bản xứ: lần đầu tiên gửi hai sinh viên Đại chủng viện Phú Xuân đi du học Roma (thầy Phêrô Ngô Đình Thục và thầy Phêrô Nguyễn Văn Lành), mời hoặc xin phép Toà Thánh thành lập một số dòng tu: Bảo trợ thành lập Dòng kín Carmel ở Huế (1909), Đan viện Phước Sơn ở Quảng Trị (1918), mời các cha Dòng Chúa Cứu Thế từ Canada (1925), lập Dòng Sư Huynh giảng viên giáo lý Thánh Tâm (1925), công nhận Dòng chị em Mến Thánh Giá cải cách Kim Đôi (1924).
Ngài không chỉ lo việc đào tạo linh mục bản xứ, mà còn đặc biệt chú ý đến vai trò của nữ tu bản xứ. Năm 1920, theo lời mời gọi của Chúa Thánh Thần qua dấu chỉ của thời đại, ngài đã dũng cảm thành lập Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế – một dòng nữ đầu tiên ở Huế sống đời thánh hiến, chuyên chăm giáo dục đức tin và văn hóa cho các thanh thiếu nữ. Đây là một hành động của niềm hy vọng mạnh mẽ, vì lúc ấy, người phụ nữ còn bị giới hạn nhiều mặt, chưa được nhìn nhận, chưa có nhiều hiểu biết về trình độ văn hóa… như ngày nay.
Không phụ công khó và sự hy vọng của cha Allys, Chúa nhân lành dùng tay cha để mang lại một sức sống mới cho Giáo hạt mà cha coi sóc, cách riêng là giáo xứ Phủ Cam. Sau những năm nỗ lực trong sứ vụ mục tử, từ con số 500 giáo dân lúc ngài đến nhậm xứ thì đến năm 1910, lúc ngài rời chức vụ, số giáo dân ở đây đã lên đến hơn 2.400 người và toàn Giáo hạt lên đến 11.000 người[3]. Cha Allys quả là hình ảnh đẹp của một vị mục tử không bao giờ thôi hy vọng, vì biết rằng Đấng đã bắt đầu công trình nơi ngài sẽ hoàn tất nó.
3. Hy vọng ngay giữa đau khổ và thập giá
Ngay trong những đau khổ và giữa những thập giá, cha Allys vẫn sống niềm hy vọng tròn đầy. Niềm hy vọng này không khiến ngài sống lạc quan cách mù quáng, nhưng là thái độ vững tin nơi Chúa giữa thực tế cam go. Khi đối diện biến cố Dương Sơn năm 1883, tại Thừa Thiên, khi nhóm Văn Thân mở cuộc tàn sát giáo dân, Đức cha Lộc đã gọi cha về Tòa giám mục để tị nạn nhưng cha Allys vẫn chọn ở lại, cùng sống, cùng khổ, cùng hy vọng với dân mình.
Cuối đời, Đức cha Allys mang nhiều bệnh tật, sức yếu. Thánh giá nặng nhất đối với ngài, mà ngài xét thấy theo tính khí của mình, Chúa nhân lành không thể ban một thánh giá nào khác nặng hơn là bị mù hai mắt. Hơn nữa, trong trách nhiệm của mình, ngài không thể nào tránh khỏi những căng thẳng, lo âu. Tuy vậy, ngài không để mình quá bị ảnh hưởng, nô lệ những điều đó… Thay vì co cụm, ngài vẫn kiên trì cầu nguyện, tiếp tục dâng hiến và yêu thương, khích lệ đoàn chiên và không ngừng nâng đỡ những người yếu kém. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện, để ở trước Thánh Thể. Khi có điều gì quá phiền muộn thì ngài hát lên. Có lẽ chính sự lạc quan đó đã giúp cha không ngừng nuôi hy vọng để lướt thắng những đau khổ, thử thách và can đảm mang lấy thánh giá của Đức Giêsu khi ngài thốt lên: “điều quan trọng là cầu nguyện và chịu đau khổ”.
4. Hy vọng thể hiện qua tình yêu dành cho người nghèo và những người bé mọn
Niềm hy vọng Kitô giáo nơi ngài không phải là lý thuyết, mà là hành động cụ thể trong từng cách sống, từng quyết định, từng nụ cười dành cho tha nhân. Đức cha Allys sống khiêm tốn, gần gũi, không bao giờ xa cách với ai, lương cũng như đạo, người Việt cũng như Pháp, dân thường cũng như quan lại. Người được mệnh danh là người của mọi người, là vị Giám mục mỉm cười. Chính lòng thao thức cho những người nghèo nên khi thấy các trẻ em thời bấy giờ không được giáo dục về đức tin và thăng tiến về văn hóa, ngài đã nuôi dưỡng nỗi ưu tư đó. Như đã đề cập, ngày 8.9.1920, ngài đã lập nên Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm để chuyên lo giáo dục cho các thanh thiếu nữ. Năm năm sau, ngài lập thêm dòng Thánh Tâm để chuyên giáo dục cho các trẻ nam.
Hơn nữa, ngài yêu mến và bênh vực những người nghèo, những người dễ bị tổn thương, và luôn sống đơn sơ như một người cha giữa đoàn con. Điều này được thể hiện trong cách ăn uống và cách tiếp xúc của ngài với người khác: “ngài không ăn chi hết mà sống! Không bánh, không cơm, không rượu, không thịt, không chi hết, hầu như ngài chỉ ăn cái không không! Thật lạ! Mỗi bữa thì dùng ít cá luộc và vài củ khoai cũng luộc thôi! Dầu có đón rước ngài cũng thật dễ, không cần ai cầm áo đuôi vì ngài không có, không xe hơi, không tài xế, không đầy tớ, đầu bếp cũng không…”[4]
Đức Cha Allys đã sống hy vọng trong suốt cuộc đời mình vì ngài đã hướng đến một niềm hy vọng sâu xa hơn, niềm hy vọng tối hậu: Hy vọng Cánh Chung. Đức cha Allys đã sống tinh thần hy vọng Kitô giáo như một người gieo hạt âm thầm, gieo bằng tất cả niềm tin, hy sinh và tình yêu. Chính nhờ đời sống ấy, mà ngày nay Giáo phận Huế, và đặc biệt là Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, vẫn tiếp tục trổ sinh những hoa trái tốt lành.
6. Tiếp bước niềm hy vọng của cha
Trước một thế giới đang bị tục hóa và bao thách đố khác, các Kitô hữu nói chung và người tu sĩ nói riêng không ngừng bị chất vấn lại chính niềm hy vọng của mình. Hy vọng là quà tặng vô giá mà không phải có thể dùng tiền để mua được. Là con cái của Đức cha Allys, mỗi người Con Đức Mẹ Vô Nhiễm cũng được mời gọi tiếp nối tinh thần hy vọng ấy trong chính đời sống hôm nay: Hy vọng khi cộng đoàn chưa hiểu nhau trọn vẹn, hy vọng khi sứ vụ đòi hỏi nhiều hy sinh, hy vọng khi lòng mình mệt mỏi… và hy vọng trong bao trường hợp khác…
Cha Allys đã ra đi khi con cái của ngài còn rất trẻ, chỉ mới 16 tuổi. Tài sản vô giá mà cha để lại cho con thơ là niềm hy vọng của cha. Chính niềm hy vọng đó đã giúp cho các chị tiền bối vượt qua bao khó khăn thử thách của bước đầu, của thời cuộc để có thể giữ vững ơn gọi và xây dựng Hội dòng ngày mỗi ngày thêm vững mạnh. Bước sang tuổi 105, Hội dòng mà cha đã gầy dựng trong hy vọng ngày nào đang trên đà tiến bước, không chỉ về lượng nhưng cả chất. Tiếp nối sứ mạng cha cưu mang và để lại, với sự thích ứng của thời đại, mỗi chị em Con Đức Mẹ Vô Nhiễm đang cố gắng chạy thật nhanh, thật bền trên hành trình tiến về quê hương đích thực, trở nên những “người hành hương của hy vọng” giữa thế giới hôm nay. Chúng ta hy vọng, vì chúng ta tin Chúa đang dẫn dắt. Và cũng như Đức cha Allys, chúng ta sẽ tiếp tục gieo cách âm thầm nhưng tin tưởng, khiêm tốn nhưng mạnh mẽ để Hội dòng ngày mỗi đi lên, góp phần hương sắc vào vườn hoa Giáo hội.
M. Anna Thảo Ly (Học viện SG), FMI
[1] Thư Đức Thánh Cha Phanxicô về Năm thánh 2025, truy cập ngày 20.4.2025 tại https://hdgmvietnam.com
[2] x. Lịch sử Giáo phận Huế, tr.55
[3] x. DÒNG CON ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM, Tiểu sử hai Đấng Sáng Lập, tr. 5
[4] Hạnh tích cha Benoit R. P. Henri Denis Cố Thuận, Tổ phụ dòng Xitô, Thánh gia Việt Nam, tr. 172-173. Nguồn: DÒNG CON ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM, Tiểu sử Hai Đấng Sáng Lập, tr.21.