Lời Cha để lại

Khi có cơ hội, tôi cũng dành chút thời gian đến thăm những người nghèo, bệnh tật. Họ cũng cho tôi những bài học về lòng khao khát Thánh Thể…


Tháng 4 về gợi lại trong tôi biết bao kỷ niệm. Bao nhiêu năm ở trong Hội dòng, mỗi lần đến ngày lễ giỗ của Đức Cha Tổ phụ, lòng tôi lại rộn lên hai chữ “nhớ thương”. Tôi nhớ thương người Cha đã được về quê hương vĩnh cửu. Mặc dù chưa bao giờ giáp mặt, chưa một lần trò chuyện, chưa một lần thể hiện sự quan tâm của tôi đối với Cha mình, nhưng tôi cảm nhận được sự yêu thương của Cha bởi những gì Cha để lại cho tôi, người con thơ dại.

Đọc lại những trang sử viết về Cha, những câu chuyện mà những người được sống gần Cha kể lại, trong tôi đọng lại lời nhắn nhủ sâu sắc: “Ngày nào ra trước tòa phán xét, tôi chỉ sợ hai điều: một là khi còn sống đã không yêu phép Thánh Thể cho đủ, hai là không hết tình cứu giúp các linh hồn nơi luyện ngục”. Kinh nghiệm sống của Cha trong đời sống hằng ngày đã để lại cho tôi bài học quý giá về việc yêu mến Thánh Thể và cứu giúp các linh hồn.

Cha nhắc tôi về những giá trị mang lại cho tôi hạnh phúc đời sau khi sống đúng với lời mời gọi của Giáo hội, là đặt Thánh Thể ở trung tâm của đời mình. Vì “Thánh Thể là nguồn mạch và là chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của mỗi Kitô hữu và của Giáo hội”[1]. Trong Thánh Thể, Chúa Kitô thật sự hiện diện và làm cho đức tin của tôi ngày càng lớn mạnh. Như bữa ăn hằng ngày cần thiết cho sự sống nơi thân xác tôi thế nào, thì Thánh Thể lại càng cần thiết hơn cho linh hồn tôi, và là đảm bảo cho sự sống đời sau. Đức Cha Tổ phụ đã ý thức được điều này nên Cha rất yêu mến Thánh Thể, Cha dành một chỗ ưu tiên trong đời sống cho Bí tích Thánh Thể. Thiết nghĩ rằng Cha đã tâm sự và bàn hỏi với Chúa Giêsu Thánh Thể mọi việc quan trọng trong vai trò là người mục tử. Nhờ sống mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể, Cha đã học nơi Chúa cách yêu thương, vui vẻ và đón tiếp những ai tìm đến. Qua bao khó khăn gian khổ của sứ vụ, Cha vẫn là vị “Giám mục mỉm cười”, “Ông tiên bên đạo” với nụ cười luôn nở trên môi. Phải chăng Thánh Thể là nơi Cha kín múc được nguồn sức mạnh và ân sủng để vượt qua mọi gian nan thử thách? Đặc biệt là trong những giây phút cuối đời khi bị mù cả hai mắt, Cha vẫn bình thản trải qua. Dường như Bí tích Tình Yêu ấy là phương dược an ủi nâng đỡ để Cha can đảm chấp nhận thánh giá “nặng nề” ấy trong vui tươi và nhẹ nhàng.

Khi có cơ hội, tôi cũng dành chút thời gian đến thăm những người nghèo, bệnh tật. Họ cũng cho tôi những bài học về lòng khao khát Thánh Thể. Một lần tôi đến thăm một mệ già, không có cơ hội để tham dự thánh lễ, câu nói của mệ làm thức tỉnh tâm hồn tôi: “Xơ ơi, Xơ cho con cái máy vuông vuông to to mà có mạng để con được tham dự thánh lễ hằng ngày. Chân con đau không đi được, mỗi tuần chỉ được đi lễ một lần thôi. Xơ có không, xơ cho con”. Lúc ấy lòng tôi lại nhói lên trước sự khao khát được tham dự thánh lễ mỗi ngày của một người nghèo. Tôi thấy bản thân cần chăm chỉ, sốt sắng hơn nữa khi được tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể mỗi ngày, khao khát rước Chúa Giêsu vào lòng, bởi đó là phần phúc Chúa ưu ái dành riêng cho người môn đệ. Tôi cũng nhớ đến những con người “tha hương cầu thực”, vì hoàn cảnh gia đình mà chấp nhận xa quê, không có cơ hội để tham dự thánh lễ và những nghi thức phụng vụ quan trọng trong Giáo hội. Mỗi lần rước lễ, tôi lại khao khát thay cho cả những tâm hồn ấy để rước Chúa vào lòng. Tôi cảm nhận sự hiệp thông sâu xa với anh chị em tôi trong cùng một Tấm Bánh Giêsu. Tôi thấy được nguồn sức mạnh và sự hiệp thông mà Thánh Thể đem lại. Thánh Thể thật quan trọng và cần thiết biết bao, như lời Đức Cha Tổ phụ đã để lại cho tôi.

Cha còn nhắc tôi về việc năng cứu giúp các linh hồn nơi Luyện ngục. Đối với Cha, điều này không kém phần quan trọng so với việc yêu mến Thánh Thể. Hết tình cứu giúp các linh hồn nơi Luyện ngục cũng giúp tôi bước vào sự sống vĩnh cửu đời sau. Tôi ý thức hơn về những khổ cực mà các linh hồn phải chịu khi lật lại từng trang sách Truyện tích chuỗi Mân Côi. Thánh Vincent Ferrer nhận định sâu sắc rằng: “Những nỗi thống khổ của các linh hồn dưới luyện ngục rất to lớn, cho nên một ngày ở đó cũng như ngàn năm đối với họ”. Tôi được mời gọi cầu nguyện cho những người trong Luyện ngục. Lời cầu nguyện của tôi có hiệu quả và được Thiên Chúa sử dụng để xoa dịu bớt nỗi đau mà các linh hồn phải chịu, bởi vì đó là hành động của tình yêu thương của tôi, như công cụ ân sủng thanh tẩy của Thiên Chúa. Ngài cho phép và mời gọi tôi tham gia vào cuộc thanh tẩy cuối cùng của các linh hồn bằng lời cầu nguyện và hy sinh. Điều này tạo nên sự hiệp thông thiêng liêng giữa tôi với những linh hồn trong Luyện ngục. Thiết nghĩ rằng Các Thánh trên Thiên đàng cũng đặc biệt dâng lời cầu nguyện cho những linh hồn ở trong Luyện ngục, đang chờ đợi sự hiệp thông trọn vẹn với họ trên Thiên đàng.

Mặc dù 89 năm Đức Cha Tổ Phụ rời dương thế, nhưng lời nhắn nhủ và gương sống đức tin, tình yêu thương, sự bao dung, lạc quan và hy sinh của Cha vẫn còn sống động trong lòng mỗi chị em trong Hội dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Với tôi, Cha đã sống một cuộc đời thật đẹp, đã hết lòng dâng hiến đời mình cho Giáo hội và luôn làm tròn trách nhiệm mà Chúa trao phó, tôi rất tự hào về Cha. Người ta nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Tôi ao ước cùng với Đức Cha Tổ phụ say mê Thánh Thể và hết tình cứu giúp các linh hồn. Thật là một hồng ân khi cộng đoàn nào của Hội dòng tôi cũng có một nơi cho Chúa Giêsu Thánh Thể ngự. Nơi ấy là trung tâm quy tụ chị em tôi, nơi tôi gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa, nơi cưu mang các linh hồn trong lời cầu nguyện.

Lúc này, trước di ảnh của Đức Cha Tổ phụ, lặng lẽ ngắm nhìn Cha, tôi nhìn thấy khuôn mặt mỉm cười. Tôi để cho lời của Cha cứ vang vọng trong lòng, tự nhắc nhở mình: “Ngày nào ra trước tòa phán xét, tôi chỉ sợ hai điều: một là khi còn sống đã không yêu phép Thánh Thể cho đủ, hai là không hết tình cứu giúp các linh hồn nơi Luyện ngục”.

Maria Tuyết (Học viện SG), FMI  


[1] GLHTCG, số 1324.