Ngày
19 tháng 10 năm 1997, thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu được ĐGH Gioan Phaolô II
trao tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Ngài là người trẻ nhất (24 tuổi) trong 3
vị nữ thánh được trao tặng danh hiệu này.
Nhìn
vào cuộc đời của chị Têrêsa chúng ta chắc không khỏi ngạc nhiên thắc mắc: “Đâu
là điều khiến chị có được danh hiệu ấy ?”; bởi cuộc đời chị quá đơn giản và bình
thường, chẳng có chi là nổi trội. Thậm chí có người còn nhận xét: “Có lẽ với cuộc
đời ấy chị đã chìm vào quên lãng, nếu không để lại cuốn tự thuật ‘Truyện một
tâm hồn’ mà chị viết vì vâng phục.”
Bạn
đã bao giờ nghe về Thánh Thérèse hay Thánh Têrêsa Hài Đồng và những bí mật về
thánh nữ ? Bạn có biết tại sao có rất nhiều người chọn ngài làm thánh quan thầy,
và là người bạn gần gũi nhất của mình không ?
Thérèse
Martin sinh ra trong một thị trấn thuộc Alencon, Pháp vào ngày mùng 2 tháng 1
năm 1873. Chị ấy là con gái út trong gia đình gồm 5 chị em gái. Khi chị ấy còn
rất nhỏ, mẹ của chị ấy mắc căn bệnh ung thư. Vào thời đó, họ không có thuốc và
sự điều trị tốt như ngày nay. Các bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng căn bệnh của
bà Martin vẫn ngày càng nặng thêm. Bà ấy đã mất khi Thérèse mới chỉ 4 tuổi.
Đó
là khi bố của Thérèse quyết định tốt hơn nên chuyển nhà đến Lisieux, một thị trấn
khác, nơi có nhiều người thân sinh sống. Ở đó có tu viện Carmelite, một tu hội
dòng kín, nơi mà các thiếu nữ làm một công viêc đặc biệt đó là cầu nguyện cho
toàn thế giới. Khi Thérèse được 10 tuổi, một chị gái của chị là Pauline đã xin
nhập dòng Carmelite ở Lisieux. Điều đó thật khó khăn cho Thérèse vì chị Pauline
giống như người mẹ thứ hai của Thérèse, chăm sóc và dạy dỗ chị ân cần như mẹ chị
đã từng làm. Thérèse nhớ chị Pauline đến phát ốm. Suốt cả tuần sau đó chị vẫn
chưa khỏi, các bác sĩ không biết chị ấy đã gặp vấn đề gì. Bố và 4 chị gái của
Thérèse đã cầu xin Thiên Chúa giúp. Một ngày sau, tượng Đức Mẹ trong phòng ngủ
của Thérèse bỗng dưng mỉm cười với Thérèse và chị ấy hoàn toàn bình phục!
Một
lần khác, Thérèse nghe tin về một người đàn ông đã gây ra ba vụ giết người và
thậm chí còn không biêt hối lỗi. Chị ấy quyết định cầu nguyện và làm một việc
hy sinh để cầu nguyện cho ông ấy (như từ bỏ một cái gì đó mình thích hay làm một
việc nào đó mà mình không thích). Chị ấy cầu xin Chúa thay đổi tâm hồn người
đàn ông ấy. Trước khi người đàn ông đó chết, ông ta hỏi về cây thánh giá và hôn
lên hình Chúa Giêsu. Thérèse cảm thấy rất hạnh phúc, chị biết rằng ông ta đã
tin vào Chúa và nhân đón nhân ơn sám hối.
Thérèse
rất yêu mến Chúa Giêsu. Chị muốn dâng hết cả con người mình cho Chúa. Chị muốn
gia nhập dòng Camelô để có thể dâng hiến đời mình để làm việc và cầu nguyện cho
mọi người, nhất là những người còn chưa biết đến lòng thương xót Chúa. Nhưng
Thérèse gặp một trắc trở. Chị ấy còn quá trẻ, chị cần phải cầu nguyện và chờ đợi
thêm. Cuối cùng thì chị cũng được 15 tuổi, được phép gia nhập vào tu viện.
Chị
Thérèse đã làm gì trong thời gian ở tu viện ? Không gì đặc biệt cả. Bí mật của
chị ấy là: Yêu mến. Có một lần Thérèse nói rằng: “Thiên Chúa không muốn chúng
ta phải làm điều này điều kia cho Ngài, mà Ngài muốn chúng ta yêu Ngài là đủ”.
Vì thế, Thérèse đã ước muốn và thực hành đời sống yêu mến Chúa. Chị tập kiên nhẫn
và ân cần với mọi người, điều đó thật không dễ chút nào. Trong thời ấy, lúc các
chị đang giặt quần áo bằng tay (lúc đó máy giặt chưa được phát minh!). Có một
chị luôn làm bắn tóe nước bẩn vào mặt chị Thérèse. Nhưng Thérèse chẳng bao giờ
tỏ ra bực bội. Thérèse thường hay giúp đỡ một chị lớn tuổi có tính cáu gắt và
luôn phàn nàn về mọi thứ, bởi vì chị Thérèse không cảm thấy thích việc đó.
Thérèse muốn đối xử với chị ấy như với chính Chúa Giêsu. Chị biết rằng khi mình
yêu những người khác tức là mình đang yêu chính Chúa Giêsu. Tình yêu khiến
Thérèse trở nên hạnh phúc.
Thérèse
chỉ sống đời tu 9 năm. Căn bệnh lao đã xảy đến với chị, nó khiến chị phải chịu
rất nhiều đau đớn. Không có sự điều trị đối với căn bệnh ấy, các bác sĩ cũng
không thể giúp được nhiều cho chị. Thérèse qua đời khi mới chỉ 24 tuổi. Nhưng
trước khi chết, chị đã hứa sẽ không từ bỏ điều bí mật của mình. Chị hứa sẽ luôn
yêu thương và giúp đỡ mọi người khi về quê trời. Trước khi mất, Thérèse đã nói:
“Tôi sẽ gửi mưa ơn lành từ trời xuống mặt đất”. Và chị ấy đã làm được điều đó!
Tất cả mọi người trên thế giới, những người đã nhờ thánh Thérèse Lisieux cầu
xin đến Thiên Chúa đều nhận được sự đáp trả qua lời cầu nguyện của họ.
Thérèse
đã khám phá ra “con đường nhỏ” để đến với Thiên Chúa: Thérèse muốn nên Thánh.
Ngài biết Thiên Chúa rất muốn giúp đỡ mình và đặt hết mọi tin tưởng nơi Thiên
Chúa và yêu Chúa hết cả tấm lòng, sau đó ngài quan tâm, đối xử tốt với mọi người
xung quanh, từ những việc đơn giản nhất. “Con đường nhỏ” của Thérèse là làm mọi
việc bạn có thể làm cho người khác vì yêu mến Chúa. Đó chắc chắn là cách để bạn
có thể nên thánh.
Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm
diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp
sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của
nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.
Trước
hết là thái độ sống trẻ thơ. Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định:
“Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì
chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy
chỉ biết ăn uống và kiếm tiền”. Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho
chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên
Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên
nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha
chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng
ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.
Nhận
định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng
đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó
thác, không có thái độ kẻ cả.
Chúa
Giêsu gọi em nhỏ đến ngay lập tức. Ngài đặt em đứng giữa các ông . Trẻ nhỏ thời
bấy giờ được xem là người yếu thế, không thể tự quyết, có bổn phận phải phục
tùng, không được ý kiến và phải vâng lời
người lớn trong mọi sự cách tuyệt đối, như trong thư thánh Phao-lô gửi
tín hữu Ga-lát “Bao lâu người thừa tự còn là một đứa con nít, nó chẳng
khác gì một kẻ nô lệ” (Gl 4, 1).
Trẻ
nhỏ là một kẻ nô lệ. Chúng ta nghe Chúa Giêsu trả lời: “Thày bảo thật anh
em, nếu anh em không trở lại mà nên như
trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Một chân lý sống. Một lời
khẳng định mang tính quả quyết. một câu điều kiện để được hưởng hạnh phúc thiên
đàng. Thật vậy, để đạt được Nước Trời, phải thay đổi và trở nên trẻ nhỏ, nghĩa
là phải tập cho mình tinh thần phó thác, khiêm nhu của con trẻ. Và Chúa Giêsu kết
luận: “vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước
Trời”. Kẻ nào tự cho mình là bé mọn, là thấp kém, không là “cái rốn
vũ trụ”, thì trước mắt Thiên Chúa, kẻ ấy có tầm quan trọng trong vương quốc
của Ngài.
Hơn
nữa, Chúa Giêsu còn đẩy xa hơn tinh thần trẻ thơ đến độ “Ai tiếp đón em nhỏ
vì danh Thày là tiếp đón chính Thầy”. Ngài đồng hóa mình với em nhỏ, vì
Ngài đã vâng lời Thiên Chúa đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thánh giá
“Xin cho ý Cha được thể hiện”. Ngài tín thác vào tình yêu Thiên Chúa
ngay cả trong lúc cảm thấy đau đớn nhất, cô đơn nhất “Con phó hồn con
trong tay Cha”.
Những
đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận
và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ
nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều
đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt khỏi những
người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn
tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những
người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng
khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật,
với tình thương và với người anh em.
Xin
Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với
người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ mọi người vì
tình yêu Chúa.
Huệ
Minh