|
Cuộc đời của một vị thánh luôn đan xen
những may mắn với thử thách,khó khăn.Xem ra,các thánh càng gặp chông gai,càng
vác Thập giá, các Ngài càng vui vẻ vì càng lúc các Ngài càng giống Chúa Giêsu cứu
thế. Dù rằng, có nhũng vị thánh làm tới những chức vị cao trọng trong Hội
Thánh, cuộc đời của các Ngài ít người được thong thả, thoải mái và dễ chịu như
quan niệm đời thường. Thánh Ca-li-tô I, giáo hoàng không đi ra ngoài cái vòng
đó: Ngài gặp đau khổ trên ngai Giáo hoàng, bị bắt,bị hành hạ và cuối cùng bị chết
để làm vinh danh Chúa Kitô.
Ca-li-tô là một phó tế .Vào những thế kỷ
đầu tiên,chỉ có 7 phó tế trong Giáo T Triều Roma mới có quyền bầu chọn Giáo
hoàng. Thầy sáu Ca-li-tô là cộng sự viên rất thân tín của Ðức Thánh cha
Zêphyrinô.Ðức Giáo Hoàng Zêphyrinô tín cẩn thầy phó tế Ca-li-tô và Thầy sáu
Ca-li-tô đã giúp đỡ rất nhiều cho Ðức Giáo Hoàng.
Chính vì thế,khi Ðức Thánh Cha Zêphyrinô
tạ thế,phó tế Ca-li-tô đã được bầu chọn lên kế vị Ngài vào năm 217. Ðức Giáo
Hoàng Ca-li-tô I đã điều khiển Hội Thánh,đã chèo lái con thuyền Giáo Hội thời
Hoàng đế Antonin Heliogabale. Thời kỳ lãnh đạo Giáo Hội Chúa Kitô, thánh
Ca-li-tô I đã cho sửa sang lại những nghĩa trang đầu tiên của cộng đoàn tín hữu
Roma trên đường Appia. Ngài noi gương vị Giáo hoàng tiền nhiệm muốn làm cho những
nơi an nghỉ của hầu hết các vị Giáo hoàng và các thánh tử đạo trở nên những chỗ
xứng đáng,sạch sẽ,khang trang để làm sáng danh Chúa Kitô vì các thánh tử đạo đã
xây đắp nền tảng Hội Thánh trần gian vững chắc.
Dòng máu của các vị Giáo hoàng và các
thánh tử đạo đã tô xây Giáo Hội tươi xinh,tốt đẹp.Trên ngôi vị Giáo hoàng,
thánh nhân đã bênh đỡ Giáo Hội, củng cố lòng tin của mọi người,bảo vệ đức tin của
Hội Thánh trước vấn đề Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ngài đã bị linh mục Hippolyte, một
nhà tư tưởng nổi tiếng lúc đó chống đối kịch liệt.Thánh nhân đã luôn cương quyết
chống lại các bè rối,những bọn lạc giáo làm hại Giáo Hội. Thánh nhân đã bị bọn
lạc giáo và bè rối bắt bỏ tù,đánh đập tàn nhẫn, bỏ đói, bỏ khát và cuối cùng
chúng ném Ngài xuống giếng sâu để Ngài phải chết. Năm 222,thánh Ca-li-tô I,
giáo hoàng đã được phúc tử đạo và được Chúa ban triều thiên ân thưởng tại
Transtévère dưới thời vua Alexandre.
Ðược phúc tử vì đạo,thánh Ca-li-tô I,đã
giương cao ngọn cờ đức tin.Ngài đã làm rực sáng bầu trời Thiên quốc khi đổ những
giọt máu cuối cùng để minh chứng cho Chúa phục sinh vì trách nhiệm và bổn phận
của Ngài là củng cố đức tin của các anh em. Thánh Ca-li-tô I, đã minh chứng rằng
chỉ có Chúa mới là gia nghiệp,là cứu cánh của đời sống con người. Dưới giếng
sâu,chấp nhận cái chết đau thương,thánh nhân đã trở nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô vì chính nơi Thập giá,chịu chết,Chúa Giêsu đã hoàn toàn hài lòng,hân
hoan và hoàn tất ơn cứu chuộc theo ý Thiên Chúa Cha. Ðức Chúa Cha đã tôn vinh
Ngài.Thánh Ca-li-tô cũng được Chúa tôn vinh và xứng đáng lãnh nhận triều thiên
của Chúa
Trong cuộc sống, có những đồ vật hình thức
bên ngoài rất đẹp nhưng chất lượng bên trong lại kém. Cũng có những đồ vật hình
dáng bên ngoài xem ra xù xì cũ kỹ nhưng chất lượng bên trong lại tốt và bền. Giữa
một thế giới “vàng thau lẫn lộn”, hình thức bên ngoài và nội dung bên trong
không đồng nhất nên chúng ta rất khó phân biệt giữa đâu là thật và đâu là giả.
Phân biệt sự vật hiện tượng đã khó, nhận biết lòng dạ con người càng khó hơn biết
bao.
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta nhận thức
rõ tâm tư của con người qua lời nói và việc làm của họ. Thánh sử Luca thuật lại
rằng: trong khi Chúa Giêsu rao giảng, có một số Pharisêu và các nhà thông luật
cũng đến nghe để lên án gài bẫy xem Người có vi phạm lề luật không. Họ trách
Chúa Giêsu thường hay la cà ăn uống với người tội lỗi và không rửa tay trước
khi ăn. Nhóm Pharisêu và các luật sĩ thường tự mãn về việc họ giữ tỉ mỉ các điều
luật của tiền nhân. Họ cầu nguyện mỗi ngày, ăn chay hàng tuần, nộp thuế thập
phân và làm nhiều việc đạo đức khác nhưng với thái độ khoe khoang tự mãn mà thiếu
lòng yêu mến.
Biết được tâm địa gian dối của người
Pharisêu, Chúa Giêsu lên tiếng nguyền rủa họ sống giả dối như những mồ mả bên
ngoài tô vôi nhưng bên trong đầy sự xấu xa. Họ xây lăng mộ cho các ngôn sứ mà
cha ông họ đã sát hại. Hành động ấy tố cáo họ chính là kẻ đồng lõa với cha ông
để làm những sự xấu xa. Chúa Giêsu tiên báo họ sẽ bị đòi nợ máu của các Ngôn sứ
và Tông đồ, một món nợ từ thời cha ông họ để lại. Điều này cho thấy án phạt của
Thiên Chúa rất công thẳng, Người không dung thứ cho những hành động xấu xa dù
điều ấy xảy ra từ thời xa xưa.
Chúa Giêsu nhắc đến cái chết của ông
Aben và Dacaria như để nhấn mạnh sự gian ác đã hoành hành trong trần gian từ
thuở tạo thiên lập địa và còn kéo dài mãi gây bao oan trái cho con người. Sự
gian ác xấu xa của người Pharisêu lên đến tột độ khi họ bắt giết các Ngôn sứ và
Tông đồ là những người đến để rao giảng tình thương của Thiên Chúa. Họ giết những
người được Thiên Chúa sai đến nghĩa là họ gián tiếp từ chối tình thương của
Thiên Chúa. Không chỉ dừng lại ở đó, họ còn “cất giấu chìa khóa của sự hiểu biết”,
ngăn cản người công chính không thể đến nghe về Mầu Nhiệm Nước Trời.
Lời Chúa Giêsu khiển trách Pharisêu cũng
chính là lời khiển trách đối với mỗi người chúng ta. Đôi lúc chúng ta cũng sống
giả dối, làm việc bác ái nhưng để che đậy tâm địa xấu xa. Chúng ta giữ luật để
khoe khoang tự mãn và để đánh bóng tên tuổi. Chúng ta đặt ra nhiều khoản luật
nhưng lại sống phóng túng tự do. Thiên Chúa sẽ cật vấn lương tâm mỗi người và
“đòi nợ” nếu chúng ta gây tổn thương cho người khác, đặc biệt những người được
Chúa sai đến.
Mỗi ngày, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn lại
mình để thấy tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta là kẻ tội lỗi. Nhìn lại
chính mình để khiêm tốn sửa lỗi, để quyết tâm sống hoàn thiện. Thiên Chúa sẽ trả
lại cho ta tất cả những gì ta đã làm cho tha nhân. Vì thế chúng ta hãy tích cực
gieo tình thương để gặp ơn tha thứ, gieo sự quan tâm chia sẻ để gặp niềm vui an
hòa.
Luật Chúa không phải là thứ ngôn ngữ
trong sách vở nhưng là hơi thở của cuộc sống. Luật ấy đã được kiện toàn qua
Chúa Giêsu. Người đã thực hiện bằng tất cả sự yêu thương và khiêm tốn. Đó là sự
hài hòa giữa việc chu toàn các điều luật và việc phục vụ tha nhân. Chính Chúa
Giêsu đã khẳng định “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mosê hoặc lời
các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17).
Nhóm người Pharisêu Chúa Giêsu vi phạm
luật trong ngày Sabát nhưng chính họ lại là người phá hủy lề luật qua hành động
sát hại các các Ngôn Sứ và Tông Đồ. Khi lên án Pharisêu, Chúa muốn khẳng định
cho họ biết không có giới luật nào lớn hơn luật yêu thương. Bao trùm tất cả việc
giữ luật là sự yêu thương và cứu rỗi nhân loại. Chúa Giêsu đã nêu gương cho
chúng ta về thái độ giữ luật, phải mặc lấy tâm tình cởi mở khi gánh lấy tất cả
những chứng đau bệnh của con người, mang lấy số phận hay hư nát của con người
mà treo lên cây thập giá. Người đã sống cho Sự Thật và đã chết để làm chứng cho
Sự Thật.
Việc thờ phượng Thiên Chúa không tách rời
khỏi việc yêu thương và tôn trọng tha nhân.
Ước gì chúng ta biết đi ra khỏi con người
ích kỷ của mình để tự do thi hành việc bác ái. Việc giữ luật không chỉ đóng
khung trong nhà thờ nhưng được mở rộng để đến tha nhân để cảm thông chia sẻ mọi
nỗi buồn vui với họ. Giáo hội của Chúa không phải là giáo hội của những thành
quách, đền đài với tháp chuông cao vút. Giáo hội của Chúa là từ bỏ địa vị cao
sang, cúi xuống để phục vụ. Một giáo hội luôn song hành và ưu tư với những buồn
vui của phận người. Việc sống đạo không chỉ dừng lại ở những lễ hội tiệc tùng
nhưng là ở cuộc gặp gỡ và đối thoại, là việc nâng dậy những ai yếu đuối vấp
ngã, đưa dẫn những ai lầm đường lạc lối trở về.
Huệ Minh