|
Thánh Gioan sinh năm 1386, tại Ca-pít-tra-nô,
nước Ý.
Lớn lên, thánh nhân theo học môn luật,
và sau khi tốt nghiệp thì hành nghề thẩm phán. Ngài theo lương tâm nghề nghiệp
mà thi hành chức vụ cách khôn ngoan, đồng thời biết thương yêu nâng đỡ kẻ nghèo
khó, cô thế cô thân, nên được mọi người quý mến kính trọng. Nhưng năm 1416,
trong một cuộc giải hòa, ngài bị tố cáo thiên vị, nên bị bắt giam ở Ri-mi-ni.
Những ngày tù ngục gian khổ làm cho
thánh nhân thấy rõ đời toàn là giả trá gian xảo và không có gì tồn tại bền bĩ.
Danh vọng chức tước nay còn mai mất, chẳng khác trò hề trên sân khấu. Chỉ có
Chúa mới tồn tại, chỉ có Chúa mới là chỗ dựa vững chắc, chỉ có Chúa mới là nguồn
hạnh phúc thật cho con người. Và ngài bắt đầu quy hướng cuộc đời về Chúa.
Thế là sau khi được phóng thích, thánh
nhân xin gia nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn, từ bỏ cuộc đời, hiến trọn đời cho Chúa.
Nhưng theo Lời Chúa nói: “Ai không
vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt. 11, 38). Mới
vào dòng, thánh nhân đã phải thử thách nặng nề. Bề trên nghi ngờ thiện chí của
ngài, sợ rằng vì chán đời mà ngài đi tu, chớ không có lý tưởng tốt đẹp vì lòng
mến Chúa và thương yêu các linh hồn. Nhưng ngài không sờn lòng nản chí, một sẵn
sàng chấp nhận mọi cơn gian nan thử thách, và hoàn toàn tuân theo thánh ý Chúa.
Và thời gian trôi qua. Ngày 4 tháng 10
năm 1416, thánh nhân được lãnh tu phục dòng. Đây là ngày hạnh phúc nhất cho
ngài, lúc đó ngài đã 32 tuổi.
Từ đó thánh nhân bắt đầu đi rao giảng Lời
Chúa, và ngài đã trở thành nhà giảng thuyết đại tài. Ngài rảo khắp nước Ý, giảng
dạy trong các thánh đường cũng như nơi công trường. Các bài giảng của ngài thật
phi thường, lôi cuốn hằng ngàn hằng vạn người lạc giáo và kẻ tội lỗi trở về với
Chúa.
Đặc biệt ngài khuyên bảo hàng giáo sĩ sống
thánh thiện trọn lành, để xứng đáng làm môn đệ Chúa và giúp ích các linh hồn.
Ngài nói với họ: “Ai được mời đến dự bàn tiệc của Chúa, thì phải chiếu tỏa
một đời sống gương mẫu, đáng khen và đức hạnh, sạch mọi nhơ bẩn của thói hư tật
xấu. Phải sống xứng đáng là muối đất cho chính mình và cho người khác; phải soi
sáng sự khôn ngoan cho người khác như là ánh sáng thế gian.
Một hàng giáo sĩ không trong sạch và bần
tiện, đầy những thói hư tật xấu và vướng mắc trong vòng tội lỗi sẽ bị người ta
dẫm đạp như phân bón, đến nỗi không còn ích gì cho mình và cho người khác nữa,
vì như thánh Ghê-gô-ri-ô nói: “Kẻ nào mà đời sống bị người ta khinh chê,
thì lời rao giảng của họ cũng bị chê bai”.
Ngoài ra việc giảng thuyết, thánh nhân
còn được lệnh Đức Giáo Hoàng cổ động cho Đạo Binh Thánh Giá, kêu gọi nhiều người
gia nhập đoàn quân nầy, để chiến đấu với quân đội Hồi giáo đang xâm chiếm
Công-tăn-ti-nốp. Ngài đã chiêu mộ được hơn 40.000 người tham gia trận chiến, và
đã chiến thắng được quân đội Hồi giáo tại Ben-gát ngày 14 tháng 7 năm 1456.
Thánh nhân qua đời tại I-lóc ngày 23
tháng 10 năm 1456.
Trong Tin Mừng của ngày hôm qua chúng
ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại,
biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Tin Mừng
hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời
đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết
chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người.
Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này
trước: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người
Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết,
không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết
như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng
họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi
nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối
thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không
phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người
và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những
biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn
về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối
cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân
từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc
tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện
những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những
phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta
tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt
lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa,
hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng
ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược
lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng
nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng.
Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều
khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với
ơn Chúa. Ðừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê
bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: “Nếu
các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy”.
Cha ông chúng ta vẫn khuyên dạy con
cháu: “gieo gió gặt bão”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”… Và trong Thánh
Kinh, các câu chuyện như lụt Hồng Thuỷ, thành Sô-đô-ma bị tàn phá,v.v… cũng thường
được giải thích theo quan niệm báo ứng ấy. Không lạ gì người Do Thái thời Chúa
Giê-su, cũng như chúng ta ngày nay, thích áp dụng nguyên tắc nhân quả “ác giả
ác báo” nhưng là áp dụng cho người khác! Trước hai tai hoạ xảy ra gây chết nhiều
người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân “tội lỗi hơn mọi người khác” nên mới
bị thảm hoạ như vậy. Đành rằng, nếu gieo gió thì có thể sẽ gặt bão, song Chúa
Giê-su khuyên mỗi người không nên hồ đồ xét đoán người khác, nhưng hãy xem các
biến cố đó là cơ hội giúp ta xét lại chính mình mà trở về với nẻo chính đường
ngay. Vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét chung cuộc trên mọi người.
“Sám hối” là từ thường gặp trong Thánh
Kinh, nó được kêu gọi bởi Gio-an Tẩy Giả, Chúa Giê-su, các tông đồ và hôm nay luôn
được lặp lại nơi sứ điệp của Giáo Hội. Bởi sám hối là động thái tiên quyết để
đón nhận ơn cứu độ. Còn sống là còn cơ hội để sám hối! Nếu không tận dụng tốt
cơ hội Chúa ban thì Ngài sẽ cất đi như cây vả không chịu sinh trái (Lc 13,
6-9).
Huệ Minh