(Er 1,1-6; Lc 8,16-18.)
|
Anrê Kim Taegon và Phaolô Chong Hasang
được phong thánh cùng với một trăm mười một vị tử đạo khác do Đức Gioan Phaolô
II, năm 1984, nhân dịp Đức giáo hoàng tới Triều Tiên. Lễ kỷ niệm được ghi vào lịch
năm 1985, định vào ngày giữa 16 tháng 9, kỷ niệm thánh Anrê Kim tử đạo, bị chặt
đầu ở Séonl, và 22 tháng 9, ngày tử đạo của thánh Phaolô Chong, cũng bị hành
quyết năm 1846.
Việc truyền giáo cho Triều Tiên bắt đầu
từ thế kỷ XVII, nhờ lòng can đảm của một số giáo dân; họ đã lập nên một cộng
đoàn sốt sáng tồn tại cho tới khi các thừa sai người Pháp tới. Các vị tử đạo
tôn kính hôm nay đều thuộc cộng đoàn đó, tất cả đều là người Triều Tiên, trừ ba
vị giám mục và bảy linh mục thuộc Hội truyền giáo hải ngoài Paris, đều bị hành
quyết trong các cuộc bách hại 1839, 1846. Trong số đó có thánh Laurent Imbert,
sinh tại Aix-en-Provence, thụ phong giám mục tại Triều Tiên, tử đạo năm 1839,
thánh Pierre Maubant và Jacques Chastan.
Anrê Kim Taegon sinh trong một gia đình
quyền quí ở Triều Tiên. Thân phụ là ông Ignace cũng tử đạo, năm 1821. Ngày nay
chúng ta còn lưu giữ được hai bức thư của cha Kim: một lá viết từ trong tù gửi
cho giám mục Ferréol, người đã truyền chức linh mục cho cha tại Macao, Trung Quốc;
lá thư thứ hai gửi các đồng đạo Triều Tiên khác. Thánh Anrê Kim Taegon là linh
mục tử đạo thứ nhất người Triều Tiên.
Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II trong” Bước qua ngưỡng cửa hy vọng “,có đoạn
đã viết:” .Khi đưa ra cho lũ đông xem con người Nagiarét,thân mình bị đánh
đòn,đầu đội mũ gai,Philatô đã không ngờ rằng khi ông ta nói”Ðây là người
“,ông ta đã công bố một chân lý căn bản và đã nói lên cái điều sẽ mãi mãi
và khắp nơi là nội dung của việc loan báo Tin Mừng “. Có nơi Ngài viết:”
Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống,phải bỏ mất
nó;muốn sinh ra,thì phải chết;muốn được cứu độ,phải nhận lấy thập giá của mình!
Ðó là chân lý nằm ở tâm điểm của Tin Mừng: ở mọi nơi và ở mọi thời,chân lý này
sẽ bị người ta phản đối”.
Thánh Anrê Kim Têgon,Phaolô Chung Hasan
và các bạn tử đạo đã chấp nhận chân lý này và đã luôn sống cái nghịch lý của
Tin Mừng.Các Ngài đã chết,nhưng các Ngài vẫn sống mãi mãi.
Thánh Anrê Kim Têgon,Phaolô Chung Hasan
và các bạn đã anh dũng hy sinh làm cho vườn hoa Giáo Hội Ðại Hàn nẩy sinh tươi
tốt. Chính Dòng máu của các Ngài đã làm cho Hội Thánh Triều Tiên lớn mạnh.Và
như Mẹ Têrêsa Calcutta nói:” Tôi có làm gì đặc biệt đâu “. Lời nói ấy
của Mẹ Têrêsa vẫn vang vọng mãi vì chính cái nói rằng không đặc biệt lại trở
thành rất đặc biệt . Thánh Anrê Kim Têgon và các bạn đã làm một hành động đặc
biệt, rất anh hùng,chấp nhận cái chết để qui tụ Giáo Hội Triều Tiên. Ðúng chết
mới nói lên lời .Ngang qua thập giá, đau khổ,các thánh tử đạo mới gặt hái vinh
quang.
Chủ đề ánh sáng được lồng trong tất cả mặc
khải Thánh Kính. Ngay từ tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng và
chính Ngài là ánh sáng. Đức Kitô còn khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga
9, 5) và Ngài yêu cầu người tín hữu hãy trở thánh ánh sáng cho trần gian Mt 5,
14). Ngài muốn ánh sáng nơi chúng ta hãy
chiếu tỏ ra, xoá tan mọi bóng đêm của trần gian này.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi đưa ra hình ảnh
chiếc đèn, Chúa Giêsu muốn nối lại truyền thống thực tiễn của Cựu Ước. Cựu Ước
không thích những lý luận trừu tượng, uyên bác của Hy Lạp. Khi tuyên xưng Thiên
Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước không lý giải về những phẩm tính trừu tượng của
Ngài, nhưng tìm cách đo lường sự trung thành của Ngài trong lịch sử nhân loại.
Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước luôn nói đến những can thiệp
của Thiên Chúa trong lịch sử con người. Khi Thiên Chúa phán một lời, lời đó
không phải là một lời nói suông, mà trở thành thực tế; Thiên Chúa không chỉ nói
qua các tiên tri, nhưng cuối cùng Lời của Ngài đã thành xác phàm.
Khi Chúa Giêsu rao giảng và làm chứng
cho Lời Cha, Ngài muốn chúng ta cũng trở thành những người môn đệ của Ngài.
Ngài cảnh báo về cách nghe và đón nhận Lời “ hãy để ý tới cách thức anh em
nghe” (c.18a). Chúng ta có thể là những mảnh đất sỏi đá, hay vệ đường, hay là một
bụi gai um tùm…. mà Lời Chúa không thể nào đâm chồi nẩy mầm được ( x .8,
4-15). Lời Chúa như sương sa, như mưa rơi…nhưng lòng chúng ta lại đóng kín,
khô cằn nên Lời Chúa vẫn chỉ ở bên ngoài, không thấm nhập vào tâm hồn chúng ta
được. Ấy là cách chúng ta nghe mà không được biến đổi. Chúng ta không muốn Lời
Chúa biến đổi tâm hồn mình.
Kết quả của việc sinh hoa kết quả là do
Lời Chúa được mỗi người đón nhận như thế nào. Cùng một loại hạt giống Lời Chúa
nhưng mảnh đất tâm hồn của chúng ta được vun xới, cày bừa khác nhau, nên hiệu
quả cũng rất khác nhau. “Ai đã có thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay
cái họ tưởng là có, cũng bị lấy mất” (18b).
Ở dây. Chúng ta có thể hiểu về đức tin
truyền thống đã có nơi người Israel, đức tin này hướng về Đấng Mêsia – Chúa
Giêsu, nhưng có người nghe theo Chúa Giêsu thì được cho thêm là sự hiểu biết về
Nước Trời, còn những người khác không nghe, không hiểu…thì đức tin truyền thống
của họ sẽ bị mai một dần và ngày càng yếu đi. Đây là lời thức tỉnh mạnh mẽ của
Chúa Giêsu đối với những người cứng lòng tin. Đó cũng là hậu quả mà họ sẽ đón
nhận, cân xứng với hành vi của họ.
“Chẳng ai đốt đèn rồi lấy hũ che đi hoặc
đăt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh
sáng” (c. 16). Khi đọc câu này, hẳn chúng ta đều biết đây là điều không thể xảy
ra. Chúng ta thường thấp đèn vì muốn thấy sự vật chung quanh, vì quanh chúng ta
toàn là một màu đen, một bóng tối. Chúng ta thích ánh sáng vì ánh sáng giúp ta
nhìn thấy những vật khác rõ hơn, chính xác hơn.
Ở đây Chúa Giêsu lại nói : thấp đèn rồi
lấy hũ che đi hay đặt dưới gầm giường, ý nói: khi chúng ta
được Lời Chúa soi dẫn (Tv 118). Chúng ta đã lấy hũ che đậy bằng cách
không sống thể hiện Lời Chúa. Một người khôn ngoan là người biết đặt đèn trên đế,
để những ai vào được nhìn thấy ánh sáng lúc này đời sống của họ để Lời Chúa hướng
dẫn và họ trở thành ánh sáng cho người khác, cho những ai muốn đi tìm ánh sáng.
Họ trở thành chứng nhân cho nguồn sáng vĩnh cửu.
“Chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên
hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra
ánh sáng” (c. 17). Chúa Giêsu khẳng định về những hành vi được thực hiện trong
bóng tối sẽ bị ánh sáng phơi bày. Khi ánh sáng đến, bóng tối sẽ lùi xa.
Đây cũng được kể như việc Chúa Giêsu đến
trần gian. Ngài đến xoá tan mọi ngõ ngách của bóng tối thanh tẩy trần gian bằng
ánh sáng. Bóng tối đó là tội lỗi, là ma quỉ, là bệnh tật… đang đè nặng trên đời
sống con người. Đức Kitô đến giải thoát họ như lời Ngài đã đọc trong hội đường
Nagiarét khởi đầu cho sứ vụ rao giảng để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo
hèn, công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho ngưòi mù biết họ được sáng mắt,
trả tự do cho người bị áp bức”(Mt 4, 18). Ngài đến rao giảng Lời Cha, và làm
cho lời Cha được sống động cụ thể trong hành vi của Ngài, và cái chết là lời chứng
hùng hồn nhất cho bài giảng của Ngài về
Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người.
Chiếc đèn được đốt lên phải đặt trên cao
để soi cho mọi người trong nhà. Ðây là hình ảnh cuộc sống đức tin của người
Kitô hữu: cũng như chiếc đèn, đức tin cần phải được thắp lên và chiếu sáng; nó
phải được đốt lên bằng những hành động cụ thể hằng ngày. Thiên Chúa là Ðấng
chân thật, bởi vì sự chân thật ấy được thể hiện bằng một chuỗi những yêu thương
đối với con người. Người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi cuộc sống của họ
thể hiện chính cuộc sống của Chúa, là yêu thương và phục vụ.
Huệ Minh