11 06 X Thứ Hai Tuần XXVIII Thường Niên. (Tr) Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII. Thánh Phê-rô Lê Tuỳ, Linh mục (U1833) Tử đạo. (Rm 1,1-7; Lc 11,29-32)

jonahwhale.jpg

Đức Thánh Cha Gioan XXIII là người đã
triệu tập Công Đồng Vatican II, mở cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới bên ngoài,
và đem một sinh khí mới vào đời sống của Giáo Hội.

Triệu tập Công đồng là một công việc vĩ
đại, phát xuất từ nhiều lo lắng cho tương lai Giáo Hội với quá nhiều vấn đề khó
khăn, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lại vẫn thường cầu nguyện rất đơn sơ nhẹ
nhàng trước giờ đi ngủ: “Lạy Chúa, Giáo Hội là của Chúa, con chỉ là tôi tớ.
Giáo Hội mạnh yếu thành đạt là trách nhiệm của Chúa. Con đã làm bổn phận của
con, giờ này đến giờ con đi ngủ, xin Chúa ban phúc lành cho con.” Nói thế rồi,
Ngài đi vào giấc ngủ ngon.

Đức Gioan XXIII cũng thường được gọi là
“Giáo hoàng Gioan nhân hậu”. Ngài coi mình là “con cái của Thánh
Phanxicô” khi gia nhập Dòng Ba Phanxicô lúc còn là một chủng sinh. Vị Giáo
hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào
hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: “Tôi là Giuse, người anh em của
quý vị.”

Vị Giáo hoàng thứ 261 này có tên khai
sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh
Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli
và bà Marianna Mazzola. Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh Angelo được rửa tội.
Người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố
Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa
cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về
những lo lắng chăm sóc của ông.

Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng
nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội,     

Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm
Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành
ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại
Roma vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria để giúp đỡ cho cộng
đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Trong hàng chục năm, Đức
cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ
nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Ngài phục hồi được mối quan hệ
thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì
đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của
hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu
tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria.

Vào ngày 27-11-1934, ngài được bổ nhiệm
làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Các nước này chưa có quan hệ
ngoại giao với Vatican. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức
được một số lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople sau nhiều
thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.

Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII
là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường
Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01 năm 1959. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng
được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962:
không phải là để đưa ra những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết
truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm đương đại. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII
mời gọi Giáo hội, thay vì lên án và công kích, hãy hướng về lòng thương xót và ủng
hộ việc đối thoại với thế giới, trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội
là đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, các giáo hội
Kitô khác cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại
gần nhau hơn.

Vào mùa xuân năm 1963, Đức Gioan XXIII
được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, xác nhận những nỗ lực của ngài đối với
hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in
Terris (1963), cũng như vai trò của ngài trong cuộc khủng hoảng tại Cuba vào
mùa thu năm 1962.

Ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm
1963 và được phong thánh vào ngày 27-4-2014 lúc 10g tại Vatican.

 Chúa Giêsu thực sự đã làm nhiều phép lạ: Ngài
biến nước thành rượu, Ngài nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đám đông, Ngài
chữa lành bệnh tật, Ngài làm cho kẻ chết sống lại. Tất cả những phép lạ Chúa
Giêsu thực hiện đều nhắm nói lên sứ mệnh của Ngài và Ngài chính là Ðấng Thiên
Chúa sai đến để cứu rỗi nhân loại. Một số người Do thái đã tin nhận và đi theo
Ngài, nhưng phần đông vẫn tỏ ra dửng dưng trước những lời rao giảng của Ngài.
Riêng những thành phần lãnh đạo trong dân, như nhóm Biệt Phái, thì chẳng những
không tin nhận, mà còn chống đối Ngài ra mặt; họ thách thức nếu Ngài làm một dấu
lạ cả thể thì họ mới tin nhận Ngài.

Trước thái độ đó, Chúa Giêsu mượn hình ảnh
của tiên tri Yôna để nói về Ngài. Tiên tri Yôna đã đến Ninivê để rao giảng sự
sám hối, tất cả các phép lạ của Chúa Giêsu cũng đều nhằm nói lên sứ mệnh của
Ngài và kêu gọi sám hối. Tiên tri Yôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm.
Giáo Hội tiên khởi đã xem đây như là một dấu chỉ loan báo chính cái chết và sự
phục sinh của Chúa Giêsu. Như vậy, nếu có một dấu lạ cả thể mà Chúa Giêsu thực
hiện để đáp lại thách thức của những người Biệt phái, thì dấu lạ đó không gì
khác hơn là chính cái chết của Ngài; chết để nên Lời, và Lời ấy là Lời của Yêu
Thương.

Đáng tiếc cho Biệt Phái và Luật sĩ vì
Chúa Giêsu trọng hơn Giôna, và khôn ngoan hơn Salômon mà họ chẳng muốn nghe
Ngài. Chứng tích sám hối của dân thành Ninivê và của thế hệ Nữ Hoàng Phương Nam
như một lời tố cáo nặng nề tội lỗi của Biệt Phái và luật sĩ, vì họ cứng tin đòi
dấu lạ và thất trung với giao ước.

Người Biệt Phái luật sĩ đòi dấu lạ, đó
cũng là điều thông thường của chúng ta hôm nay, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, sự đắc
thắng của mình. Phép lạ chỉ có giá trị nâng đỡ niềm tin chứ không phát sinh hay
ép buộc niềm tin. Cũng chính vì Chúa tôn trọng tự do con người Chúa không dùng
phép lạ làm áp lực con người, nên Chúa đã không làm phép lạ như Biệt Phái và luật
sĩ yêu cầu. Qua lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với Biệt Phái và luật sĩ,
chúng ta hãy thức tỉnh lại, chúng ta có gian ác khi đòi Chúa làm phép lạ mới
tin, khi chúng ta chai đá trước lời giảng dạy của Hội Thánh. Chúng ta ngoại
tình khi chúng ta sống đạo vụ hình thức, hoặc chưa thực sự sống trọn vẹn cho
Chúa mà còn để lòng mình quyến luyến thụ tạo hơn Chúa, đam mê các thú vui trần
thế hơn việc đạo đức. Có khi chúng ta phản bội tình thương của Chúa, để chạy
theo những đam mê xác thịt.

Ngày nay, không thiếu những người thách
thức Thiên Chúa. Cũng như những người Biệt phái, họ đòi Thiên Chúa phải làm một
dấu lạ cụ thể nào đó, họ mới tin nhận Ngài. Nhưng mãi mãi, Thiên Chúa sẽ không
bao giờ hành động như thế. Ngài mãi mãi vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã nhập
thể làm người và sống cho đến tận cùng thân phận làm người. Cái chết trên Thập
giá vốn là tuyệt đỉnh của thân phận làm người, do đó đã trở thành dấu lạ cả thể
nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện, đó là dấu lạ của tình yêu.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục bày tỏ dấu lạ cả
thể ấy. Trong trái tim mỗi người, Thiên Chúa đã đặt vào đó sức mạnh vĩ đại nhất
là tình yêu. Sức mạnh ấy không ngừng nung nấu con người; sức mạnh ấy đang được
thể hiện qua những nghĩa cử mà chúng ta có thể bắt gặp mỗi ngày. Ðó là phép lạ
cả thể nhất Thiên Chúa đang tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người. Tình
yêu vốn là sức mạnh vĩ đại nhất, nhưng thường lại được bày tỏ qua những cử chỉ
nhỏ bé và âm thầm nhất. Một nụ cười thân ái, một cái xiết tay, một lời an ủi, một
cử chỉ tử tế, một ánh mắt cảm thông và tha thứ, đó là những cử chỉ nhỏ, nhưng lại
là biểu hiện của dấu lạ cả thể nhất là tình yêu.

Huệ Minh