Chúng ta cần các chủng viện vì đó là nơi đào tạo các thế hệ linh mục mới, để họ trở thành những người “lãnh đạo đầy tớ” có thể làm mục vụ – chứ không phải cai trị – các tín hữu.

isittimetorethinkseminaries.jpg

Giáo
hội Công giáo Úc đã đạt đến điểm quan trọng trong hành trình của mình khi cần
phải tái tạo lại toàn bộ Giáo hội địa phương. Các phát hiện về lạm dụng tình
dục trẻ em trong Giáo Hội là chất xúc tác chính. Điều này được ghi lại
trong Báo cáo cuối kỳ của Ủy ban Hoàng gia về Các ứng phó của thể
chế đối với lạm dụng tình dục trẻ em
 (
Final Report of the Royal Commission into Institutional Responses
to Child Sexual Abuse).

Báo cáo này đã xác định chủ nghĩa giáo sĩ
(clericalism) là yếu tố góp phần đáng kể vào việc lạm dụng ở các cơ sở tôn giáo
trên toàn nước Úc. Chủ nghĩa giáo sĩ bắt nguồn từ niềm tin mang tính thần học
rằng giáo sĩ khác với giáo dân vì giáo sĩ đã trải qua một “thay đổi bản
thể” khi thụ phong (một sự thay đổi về bản chất con người của họ khi lãnh
nhận bí tích Truyền chức thánh). Chủ nghĩa này còn đưa ra quan điểm rằng không
ai có quyền được thách thức các giáo sĩ.

Cũng 
theo bảng báo cáo, văn hóa giáo sĩ trị đang gia tăng trong các chủng viện
ở Úc. Một cách cụ thể, họ quan niệm rằng Chủ nghĩa giáo sĩ phải là lý tưởng của
chức tư tế, hay nói rộng ra, phải là lý tưởng của Giáo Hội Công Giáo. Chủ nghĩa
giáo sĩ gắn liền với cảm tưởng có được quyền hành, ưu thế lớn và được tách
riêng, hay ngay cả lạm dụng quyền lực.  Một người mắc chứng “giáo sĩ
trị”  tự coi mình là đặc biệt, vượt trội hơn những người khác và đáng được
tôn trọng hơn. Điều này có thể dẫn đến kiêu ngạo và coi thường người khác. Giáo
dân cũng có thể mắc lỗi “giáo sĩ trị” nếu họ ủng hộ thái độ này.

Đầu
tiên, việc đào tạo linh mục được diễn ra trong môi trường “giáo sĩ” tách biệt,
mà theo báo cáo, có khả năng có tác động bất lợi đối với sự trưởng thành về tâm
lý của các chủng sinh và việc này cũng làm tăng nguy cơ lạm dụng tình dục trẻ
em. Do đó, một trong các khuyến nghị chính của Ủy ban Hoàng gia được đề cập cụ
thể là vấn đề đào tạo các linh mục trong các chủng viện cần được cải cách. Theo
đó, tất 
cả các chủng viện, học viện Công giáo
ở Úc nên xem xét và sửa đổi các tiêu chuẩn và văn bản liên quan đến việc đào
tạo linh mục. Điều quan trọng là 
Hội đồng đã đề cập đến các
vấn đề của 
Chủ nghĩa giáo sĩ trong quá trình đào tạo mục vụ. Rất may, ở một
mức độ nào đó, 
các
nhà lãnh đạo Giáo hội đã
 đồng ý về sự cần
thiết phải cải tổ.

Đề
cập đến
 những thay đổi về văn
hóa và 
cấu trúc mà Hội đồng có thể làm trong Giáo hội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Úc, Đức Tổng Giám mục Mark
Coleridge, nói rằng
:
“Đ
ây không phải là lúc để Giáo Hội treo những tấm
biển nói rằng 
‘mọi
việc bình thường’
. “Cải cách” môi trường giáo sĩ
“đòi hỏi phải nhìn nhận tất cả các khía cạnh của quá trình hình thành với
một con mắt 
biết
phê phán
Điều này nghe có vẻ hợp lý,bởi vì khi một nhóm
người được đưa đến một nơi dành riêng và được chú ý đặc biệt trong các lớp học
nhỏ với những người khác, cảm giác tách biệt có thể xảy ra.”

Điều tương tự cũng áp dụng cho những thanh niên
được phép mặc áo dòng và đeo cổ côn trước khi bước vào đời sống tu trì. Việc
đánh giá bản thân một cách 
khác biệt là hoàn toàn dễ hiểu. Câu hỏi hợp lý đặt ra là: nếu chúng ta
đang cố gắng loại bỏ 
Chủ nghĩa giáo sĩ khỏi Giáo Hội của chúng ta và
khỏi các chương trình đào tạo 
linh mục tương lai, tại sao
chúng ta vẫn cố chấp để các chủng viện tuân theo một mô hình đã tạo ra 
những kết
quả có vấn đề? 
Giáo
Hội
 phải tìm ra những cách khác
để 
đào tạochủng sinh cho nhiệm vụ làm linhmục giáo xứ.

Rốt
cuộc, Chúa Giêsu chưa bao giờ gửi các môn đệ của mình đến chủng viện. Chúa
Giêsu giới thiệu cho họ những giá trị của Nước Trời không phải trong một tòa
nhà, mà là “trên đường”.

Trong
hai thế kỷ đầu tiên, không rõ làm thế nào mà người ta được chọn để cử hành
Thánh Lễ. Nhưng khi các dòng tu được thành lập, bắt đầu từ Thánh
Bênêdictô, các tu viện có tiêu chí riêng của họ. Những người không sống trong
tu viện, tức là các ứng viên của giáo phận, đã đi theo nhiều con đường khác
nhau để được thụ phong tùy thuộc vào giám mục địa phương. Cần lưu ý rằng trong
lịch sử Giáo Hội, các chủng viện chỉ mới phát triển tương đối gần đây.

Chính
Công đồng Trent
ô (1545-63)
đã quyết định một quy trình nghiêm ngặt trong nhiều năm học tập tại một địa
điểm biệt lập duy nhất, để đảm bảo các linh mục được đào tạo thích hợp. Các
chủng sinh bị tách khỏi gia đình và cộng đồng của họ, sau đó được đưa vào một
trung tâm nghiên cứu tu đức và thần học.

“Không
phải ai đó ở trên cộng đồng, mà là một thành viên trong cộng đồng.”
 Tại sao mô hình đào tạo này lại hấp dẫn? Nó cung cấp khả
năng đọc viết và một nền giáo dục vững chắc cho các ứng viên và là nơi mà những
người nam có thể học tập với điều kiện tiếp cận các cơ sở vật chất, bất kể xuất
thân. Nó cung cấp chỗ ở để việc đào tạo có thể được tiếp nối liên tục và được
giám sát.

Hệ
thống các chủng viện đã sản sinh ra một số cá nhân xuất sắc như Thánh Gioan
Vianney, tấm gương của ngài đã dẫn đến sự biến đổi triệt để của cộng đoàn mà
ngài phục vụ. Tuy nhiên, chủ nghĩa giáo sĩ được phép phát triển bên trong Giáo
Hội qua nhiều thế kỷ, điều này đã che đi nhiều khía cạnh tích cực của việc đào
tạo và thực hành chức thánh. Nhưng ta không được quy chụp điều này riêng cho
những người được đào tạo để trở thành linh mục giáo phận. Báo cáo cuối cùng của
Ủy ban Hoàng gia chỉ trích cả “linh mục và Giáo Hội” liên quan đến việc đào tạo
của họ.

Tuy
nhiên, thành viên của các dòng tu và đan viện như Dòng Thánh Bênêđictô và Dòng
Xitô khác biệt ở chỗ, họ là thành viên của một “cộng đồng gia đình” hỗ trợ và
hướng dẫn họ; một số được thụ phong linh mục nhưng không phải tất cả. Các chủng
sinh giáo phận thường không được như vậy. Ở những dòng tu mà các thành viên ít
được phong chức linh mục, thì điều đó làm giảm bớt mối đe dọa của chủ nghĩa
giáo sĩ, hoặc mong muốn leo lên các cấp bậc trong Giáo Hội. Ngược lại, chủ
nghĩa giáo sĩ lại xuất hiện nhiều trong các chủng viện giáo phận.

Nhưng
việc tạo điều kiện cho chủ nghĩa giáo sĩ phát triển trong các hệ thống đào tạo
hiện tại ở cá chủng viện đã góp phần gián tiếp vào việc lạm dụng tình dục trẻ
vị thành niên, gây chấn động trong các cuộc điều tra trên khắp thế giới. Nếu
chúng ta nghiêm túc trong việc loại bỏ chủ nghĩa giáo sĩ, chúng ta không nên
tiếp tục với mô hình chủng viện như nó đã từng diễn ra.

Một
số giáo sư đã từng giảng dạy trong các chủng viện ở Hoa Kỳ, bao gồm các cựu
giáo sư chủng viện Colt Anderson và Christopher Bellitto, đã nhận ra những điểm
yếu của mô hình truyền thống này. Họ nói rằng mặc dù có những thanh niên tốt
theo học, nhưng các chủng viện đã đóng một vai lớn trong cuộc khủng hoảng của
Giáo Hội hiện nay “bằng cách đưa chủng sinh vào chủ nghĩa giáo sĩ”.

“Các
chủng sinh được truyền tải một thông điệp nhất quán: vai trò của họ là cai quản
giáo dân và Giáo Hội do kết quả của sự thay đổi bản thể khi thụ phong,
không phải là kết quả của phẩm hạnh, kiến thức hoặc hành vi kiểu mẫu của họ. Họ
đang được đào tạo để trở thành những ‘ông chủ chuyên quyền’, không phải những
‘nhà lãnh đạo đầy tớ’. Chúng ta cần các chủng viện là nơi đào tạo các thế hệ
linh mục mới, để trở thành những người lãnh đạo đầy tớ, những người có thể làm
mục vụ – chứ không phải cai trị – các tín hữu.”

Điều
quan trọng nhất để khỏi rơi vào chủ nghĩa giáo sĩ là tránh cô lập về mặt thể
chất những người muốn trở thành linh mục. Các chủng sinh nên dành nhiều thời
gian hơn để sống trong giáo xứ của họ trong quá trình đào tạo.

Về
mặt lý thuyết, các chủng sinh có thể tiếp tục sống tại nhà, điều này sẽ cho
phép họ duy trì mối quan hệ với những người đương thời, đang khi vẫn tham gia
vào đời sống thực tiễn của giáo xứ. Chúng ta cần xem xét các đường hướng thay
thế trong việc chuẩn bị thụ phong cho các chủng sinh. Họ cần có sự tương tác và
hòa nhập nhiều hơn với các giáo xứ của họ và thành viên của các dòng tu khác.

Như
trong tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng về Người trẻ 2018 có đề xuất rằng:
phải có các khóa đào tạo chung cho “các giáo dân trẻ, tu sĩ trẻ và chủng sinh.”
Điều này đi đôi với quan điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô về vai trò và trách
nhiệm liên đới cho cả giáo dân và giáo sĩ.

Chủ
nghĩa đại kết cũng đóng một vai trò quan trọng. Các tôn giáo khác đã chuẩn bị
như thế nào và chúng ta có thể học được gì từ họ? Để chống lại chủ nghĩa giáo
quyền, điều quan trọng là sự chuẩn bị cho một cá nhân phải diễn ra ở tại giáo
xứ, một cộng đồng với nhiều nhiệm vụ khác nhau; anh ta không nên tự cao rằng
anh ta là một ai đó đặc biệt và cao hơn mọi người, nhưng chỉ là một thành viên
trong cộng đồng.

Tác
giả: 
Gideon Goosen (Australia)

Chuyển ngữ: P. Nguyễn Thanh Trà

(giaophanvinhlong.net/ international.la-croix.com
25/9/2021)

Gideon
Goosen
 là một nhà thần học và tác giả ở Sydney. Cuốn sách mới nhất của
ông là Clericalism: Stories from the Pews, Coventry Press, 2020.