Ngày nay, vì bộ da của
nó rất quý, xương của nó nấu cao và móng vuốt của nó làm đồ trang sức, vì vậy
nó bị người ta săn lùng giết chết, thế nên nó đã được ghi vào cuốn sách đỏ. Nó là
một trong những động vật đang có nguy cơ bị tuyệt chủng! Hổ là con vật dù rằng
rất khoẻ, song không phải là “kẻ bất khả chiến bại”. Sử sách ghi lại, tại Việt-Nam
thì có Lê-Văn-Khôi tay không “đả hổ”,còn ở Trung Quốc thì có Võ-Tòng diệt cọp.
Hổ là một con vật rất đáng sợ vì sự hung hãn và
tàn bạo của nó. Nó được người xưa cho là một con vật linh thiêng, thế nên người
ta thường gọi hổ bằng ông. Tuy rằng nó gây khiếp đảm cho con người, song nó lại
hiện diệntrong nhiều lãnh vực như thơ ca, hội hoạ, điêu khắc, trước đây nó còn
được người ta in hình trên tờgiấy bạc. Đặc biệt, trong dân gian có rất nhiều
câu ca dao, tục ngữ nói về con hổ hoặc liên quan đến nó. Chẳng hạn như; Vuốt râu hùm; Cáo mượn oai hùm; Không vào
hang hùm sao bắt được cọp; Chui vào hang hùm; Diệu hổ ly sơn; Hổ phụ sinh hổ tử;
Hùm tha ma bắt; Miệng hùm gan sứa; Thả hổ về rừng; Leo lên lưng cọp; Hùm chết để
da, người ta chết để tiếng; Hùm dữ không ăn thịt con. Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt,
tri âm tri diện bất tri tâm v.v…
( vẽ hổ vẽ ngoại hình thì dễ, không vễ được xương cốt bên trong của nó, biết
người, biết mặt chứ không thể biết được lòng dạ người ta).
Bức “Xích hổ” – tranh hàng Trống. (họa sĩ Xuân Lam)
Có câu
truyện cổ tích về con hổ nội dung tóm tắt như sau. Thuở xưa khi loài vật còn
nghe và nói được tiếng người, thì một hôm có con hổ đang đi kiếm ăn, nó tình cờ
nhìn thấy cảnh một bác nông dân đang dắt trâu cày ruộng. Trong khi con trâu phải
kéo cày vất vả , nó còn bị người ấy đánh đòn và chửi mắng liên tục, thấy vậy hổ
ngạc nhiên và thắc mắc lắm. Hổ đợi đến khi trâu được nghỉ trưa, chủ thả ra cho
ăn cỏ, lúc này nó mới lại gần và tò mò hỏi:
– Này con trâu kia. Sao mày lớn xác như vậy mà lại
để cho cái thằng người nhỏ thó kia bắt làm việc nặng nhọc, đã vậy nó còn chửi bới
đánh đập mày nữa?
Con
trâu vừa nhai cỏ vừa thong thả trả lời:
– Thằng người tuy nó bé nhưng nó lại có trí khôn!
Con hổ
mon men đi lại hỏi bác nông phu.
– Con trâu nó bảo ông có trí khôn, vậy ông có thể
cho tôi xem trí khôn của ông được không?
Bác
nông dân đáp:
– Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem tao về lấy
cho mà xem, còn nếu mày thích tao sẽ chia cho mày một ít mà sài! Nói xong bác
nông dân đứng lên vội vã đi về, song đi được mươi bước như sực nhớ ra điều gì,
bác quay lại nói với hổ:
Khi tao đi khỏi,thừa lúc tao không có ở đây mày ăn thịt con
trâu của tao thì sao? Con hổ nói;
– Tôi hứa sẽ không đụng chạm gì đến con trâu của
ông đâu!
– Tao không tin.- Bác nông dân đáp – Nhưng nếu
mày để tao trói vào thân cây kia thì tao sẽ yên tâm.
Vì
nóng lòng muốn xem trí khôn nên con hổ đồng ý ngay.
– Sau khi đã trói chặt con hổ vào gốc cây rồi,
bác nông dân mới bện dây thừng lại làm roi, quất túi bụi vào thân con hổ, vừa
đánh ông ta vừa la lớn:
– Trí khôn của tao đây. Trí khôn của tao đây!
Khi đánh
đã mệt, ông ta bèn đi kiếm rơm khô, chất chung quanh con hổ rồi nổi lửa. Bị đốt
nóng quá, con hổ gào thét,lấy hết sức vùng vẫy. Cuối cùng lửa cháy đứt dây thừng
nên hổ sổng ra được. Nó liền chạy biến vào rừng.
(Vì vậy
người đời giải thích rằng, sở dĩ bộ lông của con hổ vằn vện là do nó bị người
nông dân đốt cháy sém, còn con trâu thì khi chứng kiến “màn kịch” đó đã cười
nghiêng ngả, để rồi va miệng vào vách đá, rụng hết hàm răng trên, thế nên bây
giờ loài trâu chỉ có một hàm răng dưới mà thôi!).
Tất
nhiên câu chuyện trên đây chỉ là hư cấu, chỉ là sản phẩm do óc tưởng tượng của
người xưa nghĩ ra mà thôi, song nó lại bộc lộ một tâm địa xấu vàsự ngộ nhận!Chẳng
lẽ, con người là một thụ tạo cao cấp, được dựng nên theo hình ảnh của Thiên
Chúa,( x St 1, 26-27) được Thiên Chúa ban cho quyền làm chủ trái đất và mọi
muông thú,(x.St 1, 29-31). Ấy vậy mà lẽ nào không thể đường đường chính chính
chứng minh cho con hổ biết tài năng thực sự của mình, để rồi lại dùng cách lừa
lọc, dối trá và đểu cáng mà thể hiện cái gọi là trí khôn của mình đối với một
con vật như thế sao?. Đã thế, bác nông dân còn tỏ ra hả hê, đắc chí nữa!Sự tích
này lại được đưa vào sách giáo khoa để cho các em học sinh tiểu học“hấp thụ”. (
sách in trước 1975). Như vậy, phải chăng người ta đã gián tiếp dạy cho các em học
sinh biết cách gian dối, lừa đảo và lưu manh?
Câu
thành ngữ; “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”, khiến cho người viết liên tưởng đến cụ già Êlêazar trong sách
Macabê. Ông cụ bị nhà vua Antiochus bắt phải ăn thịt heo mà lề luật cấm, có kẻ
thương ông nên bàn với ông rằng: “Ông chỉ giả vờ ăn thôi chứ thịt người ta đưa cho
ông ăn là loại thịt ông được phép dùng”. Thế nhưng ông đã nhất mực từ chối và
nói rằng: “Tôi đã già rồi, chằng còn sống được bao lâu, không nên giả vờ vì như thế
sẽ làm cho người khác hiểu lầm mà nghĩ rằng tôi đã 90 tuổi đầu mà còn tham sống
sợ chết, tôi quyết chịu chết để tỏ ra xứng đáng với tuổi già của mình và để lại
cho hậu thế, cho các thanh thiếu niên một tấm gương sáng là can đảm chịu chết
vì trung thành giữ Lề Luật đáng kính và thánh thiện”. (x 2 Mcb 6,
18-31). Nhìn vào xã hội ngày nay, chúng ta thấy không ít những quan chức, tướng
tá. Thay vì nắm quyền hành trong tay thì họ phải lo phục vụ nhân dân, phụng sự đất
nước, đàng này họ lại ăn hối lộ, tham nhũng, tiếp tay cho kẻ xấu làm băng hoại
xã hội, để rồi khi phải ra trước vành móng ngựa thì tỏ ra hèn hạ, bi luỵ, quanh
co đổ tội…Họ chẳng những không để lại cho đời được hình ảnh đẹp, mà trái lại
còn làm cho bức tranh xã hội có thêm nhiều gam mầu đen tối!
“Hổ dữ không ăn thịt con”. Câu tục ngữ này khiến chúng ta không
thể không cảm thấy xót xa, nhức nhối. Vì có biết bao trẻ em còn đang bị bạo
hành bởi cha mẹ. Câu chuyện của em bé V.A là một điển hình. Mới 8 tuổi đời mà bị
mẹ kế đánh đập dã man cho đến chết, người cha ruột thì lạnh lùng vô cảm, vô
tâm, làm ngơ cho tình nhân hành hạ con ruột, với thái độ đó thì ông ta cũng đã
gián tiếp giết hại con mình. Rồi còn không biết bao nhiêu thai nhi đã bị những
người mà xã hội trân trọng gọi bằng một danh từ rất cao đẹp, đó là Thiên Chức làm
cha làm mẹ, những người đó vì một lý do nào đó đã không để cho con mình có được
cơ hội hiện diện trên cuộc đời này!
Đọc quyển
sách: Lạc quan trên miền Thượng của Lm: Gs. Phùng Thanh Quang. Cha có viết về
những con hổ giết hại dân lành: Ngày đó nơi núi rừng xa xôi thuộc tỉnh Lâm Đồng,
số lượng hổ còn rất nhiều nên khi Đức Cha Jean Cassaigne về Di-linh để lập trại
cùi thì hổ thường xuyên về bắt vật nuôi của dân làng, nhiều khi hổ còn vồ cả
người mang đi ăn thịt…Đức Cha. Jean Cassaigne kể: “Sau 14 năm coi sóc người cùi
ở đây, tôi đã mất 7 em học trò vì bị hổ vồ đi ăn thịt”. (không kể đến nhiều người
lớn khác). Có một con hổ cái ba chân rất tinh ranh, thường xuyên về bắt người
ăn thịt. Một bà nọ đi múc nước, địu theo sau lưng đứa con ba tháng tuổi, đến suối
bất ngờ bà phát hiện ra con cọp đang rình rập gần đấy, hoảng hồn bà bỏ chạy về,
không may rơi lại đứa con, bà vào làng kêu mọi người đi cứu nó,khi mọi người cùng
với vũ khí trên tay đến nơi thì thấy một sự lạ xảy ra: Con cọp đã bỏ đi, và đứa
bé vẫn còn nằm đó vui vẻ mút tay, không hề hấn gì! Chung quanh em bé thì đầy những
dấu vết chân của cọp. Người ta suy luận rằng: Có lẽ con cọp này biết tôn trọng
tình mẫu tử nên nó đã không lỡ ăn thịt một đứa bé còn đang bú sữa! Thấy sự việc
xảy ra như vậy bà mẹ biết rằng có bàn tay can thiệp của Thượng Đế nên về sau cả
hai mẹ con bà đã xin gia nhập đạo.
Như đã
nói. Con hổ ngoài sức mạnh thể xác ra nó còn rất tinh khôn, khi người ta có vũ
khí vây bắn nó, nó biết tìm cách bắt một người trong bọn để làm bia đỡ đạn, các
người kia vì thế không dám bắn vì sợ lạc đạn trúng phải bạn mình, do vậy mà họ
đã phải để cho con cọp được thoát thân. Tương tự như thế, khi bị vướng bẫy, nó
dùng miệng để cắn đứt lìa cái chân bị dính vào bẫy, nó biết phải hy sinh một phần
thân thể để tự cứu lấy mạng sống của mình!
Mừng
năm mới, đón Xuân Nhâm Dần về, ước mong đây sẽ là dịp nhắc nhở cho mỗi người
chúng ta biết sống sao cho xứng đáng với địa vị của mình để lưu danh thơm tiếng
tốt sau này cho con cháu. Các bậc làm cha mẹ biết hy sinh, chu toàn bổn phận,
nghĩa vụ và trách nhiệm đối với con cái mà Thiên Chúa trao ban cho mình. Nói
tóm lại, mỗi người chúng ta hãy biết loại trừ, cắt bỏ đi những gì cản trở hoặc
không cần thiết để chúng ta được sống, không phải chỉ là sự sốngtạm bợ về phần
thể xác ở đời này mà là đạt được sự sống vĩnh cửu đời sau: “ Nếu chân anh làm cớ cho anh sa
ngã, thì anh hãy chặtbỏ nó đi, vì thà rằng mất một chân mà được vào cõi sống,
còn hơn còn đủ hai chân mà phải quăng vào hoả ngục.” ( Mc 9,44).
Đaminh
Trần-Văn-Chính