CÔNG NGHỆ 4.0 VÀ CHẬM
PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở TRẺ MẦM NON:
TỔNG QUAN TỪ MỘT SỐ NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI

Nt. Nguyễn Bảo Uyên, MTG Huế

Tiến sĩ Tâm lý Tham vấn

Tóm tắt

Mục tiêu: Tìm hiểu
ảnh hưởng của việc tiếp xúc sớm với màn hình lên sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ
em tuổi mầm non.

Phương pháp: Sử dụng
phương pháp tổng hợp và phân tích các nghiên cứu sẵn có liên quan đến chậm phát
triển ngôn ngữ ở trẻ và việc tiếp xúc sớm với màn hình.

Kết quả: Có một mối
liên hệ ý nghĩa về mặt thống kê giữa việc tiếp xúc sớm với màn hình và chậm
phát triển ngôn ngữ ở trẻ mầm non.

Từ khóa: Tiếp xúc
sớm với màn hình, chậm phát triển ngôn ngữ.

1. Mở đầu

Sự phát triển của trẻ em ngày nay chịu sự ảnh hưởng đáng kể
của các phương tiện kỹ thuật số. Các nghiên cứu gần đây cho thấy có 64% đến
100% trẻ em xem tivi trước 2 tuổi.
[1] Trẻ em thường vui vẻ, yên lặng
khi có một màn hình tivi trước mặt hoặc có một thiết bị điện tử trong tay. Trẻ
ăn cơm nhanh hơn và tốt hơn nếu vừa ăn vừa xem tivi. Trẻ sẽ yên lặng cho cha mẹ
giải quyết các công việc hay vượt qua một ngày bận rộn cách dễ dàng nếu có tivi
trước mặt hoặc một thiết bị điện tử khác trong tay. Nhiều người còn nghĩ rằng
tivi là một công cụ tốt để giúp trẻ trở nên ngoan hơn.

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, màn hình không là
phương tiện tốt cho trẻ em học hỏi các kỹ năng, trong đó có kỹ năng về ngôn ngữ.
[2] Trước đây, nguyên nhân thường
được biết đến của chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ em là do hậu quả của khiếm
thính, khuyết tật trí tuệ, sang chấn sản khoa, động kinh, tổn thương não, giảm
tập trung chú ý, hoặc do di truyền, rối loạn phổ tự kỷ điển hình/ bậc cao…
Các nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một nguyên nhân tác động khác, ảnh hưởng
đáng kể đến chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ, là do tiếp xúc sớm với màn hình.

Trong thực tế, hiện tượng chậm phát triển ngôn ngữ có liên
quan đến tiếp xúc sớm với tivi, điện thoại thông minh hoặc các phương tiện truyền
thông khác đang gia tăng tại một số nước trên thế giới. Tại Việt Nam, mặc dù
chưa có một con số thống kê chính xác nhưng có thể thấy rằng có một sự gia tăng
báo động về vấn đề chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ. Theo BS. Phạm Ngọc Thanh, tại
bệnh viện Nhi Đồng 1, Tp. Hồ Chí Minh, số trẻ em bị chậm nói đến bệnh viện Nhi
Đồng 1 để kiểm tra và điều trị ngày càng gia tăng, trong đó 100% trẻ chậm nói đều
có gắn liền với việc xem truyền hình quá sớm. Cũng vậy, tại Khoa Tâm lý bệnh viện
Nhi Đồng 2, BS.TS Ngô Xuân Điệp nhận định rằng: “
Thời gian gần đây, khoa cũng tiếp nhận nhiều trường hợp trẻ chậm nói do
xem truyền hình quá nhiều.”
[3]

Tại Trung tâm giáo dục kỹ năng sống hoàn năng Huế, trong 6 tháng cuối năm 2018,
có 130 trẻ từ 18 tháng tuổi đến 5 tuổi đến nhận dịch vụ tham vấn trị liệu. Các
trẻ đến trung tâm, đa số trong đó là do những biểu hiện chậm phát triển ngôn ngữ:
hoàn toàn không có ngôn ngữ ở tuổi lên hai hoặc lên ba, khiếm khuyết ngôn ngữ
theo độ tuổi, hoặc khả năng giao tiếp kém. Những thông tin được báo cáo từ phụ
huynh thường là “
trẻ ở với bà ngoại, bà nội
và đã bắt đầu xem tivi trước 12 tháng tuổi.
” “Vì công việc, cha mẹ không có nhiều thời gian chăm sóc con, người giúp
việc là người chăm sóc chính và hầu hết thời gian trẻ xem tivi hoặc máy tính
bàn để thuận tiện cho người chăm sóc có thể làm các công việc khác. Mỗi ngày trẻ
có thể xem từ 5 đến 7 tiếng đồng hồ.
” “Ba
mẹ không nói chuyện nhiều với con vì ngoài thời gian làm việc, thời gian bên
màn hình lấn chiếm thời gian của gia đình, thay thế sự tương tác giữa người lớn
và trẻ em.
” “Người lớn trong nhà xem
phim, chơi game online trước sự hiện diện của trẻ
.” “Đi khám bác sĩ y khoa
thì bảo rằng cháu phát triển bình thường,
nhưng
tôi thấy lo vì thấy trẻ chậm nói hơn bạn bè cùng lứa
” v.v.[4]

Vậy có một tương quan có ý nghĩa về mặt thống kê nào giữa chậm
phát triển ngôn ngữ và tiếp xúc sớm với màn hình đối với trẻ ở tuổi trước khi đến
trường? Mục tiêu của nghiên cứu này là tổng hợp và phân tích các nghiên cứu sẵn
có về mối tương quan giữa chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ em trước khi đến trường
và tiếp xúc sớm với màn hình. Qua đó, đề xuất những phương pháp phù hợp cho phụ
huynh, cho những người chăm sóc trẻ em cũng như các nhà giáo dục trẻ em để có
cách hiểu đúng và hướng dẫn đúng đối với con trẻ trong việc tiếp xúc với màn
hình.

1. Phương
pháp nghiên cứu

Bài báo này sử dụng phương pháp nghiên cứu các tài liệu sẵn
có về tương quan giữa việc tiếp xúc màn hình sớm ở tuổi mầm non và chậm phát
triển ngôn ngữ. Các tài liệu tham khảo phải được xuất bản sau năm 2000 và đạt
tiêu chuẩn của một bài báo khoa học. Các bài báo được đăng trên các tạp chí
online của viện nghiên cứu Khoa Nhi, như viện khoa nhi Canada, Hoa Kỳ, v.v. Các
tạp chí nghiên cứu về phát triển hành vi, ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp của trẻ.

Sau khi các tài liệu tham khảo được chọn đúng theo mục tiêu
nghiên cứu, phương pháp tổng hợp và phân tích được sử dụng nhằm tìm ra điểm
tương đồng và khác biệt giữa các nghiên cứu về mối tương quan giữa việc tiếp
xúc sớm với màn hình và chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ tuổi mầm non.

Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị cho phụ huynh, những
người chăm sóc, các nhà giáo dục trẻ và các nhà nghiên cứu quan tâm đến công việc
giáo dục trẻ thơ trong thời đại cách mạng 4.0.

2. Kết quả nghiên cứu

2.1. Các từ khóa

Thời gian tiếp xúc màn
hình (Screen time)

Thời gian tiếp xúc với màn hình là thời gian ngồi trước một
màn hình bất kỳ như: Tivi, màn hình rạp chiếu phim, điện thoại thông minh, máy
tính bảng, thiết bị trò chơi video cầm tay, đầu DVD trong xe ôtô hoặc bất cứ
phương tiện nào khác mà có màn hình và hình ảnh chuyển động.
[5]

v Chậm phát triển ngôn
ngữ (language delay)

Một trẻ được chẩn đoán chậm phát triển ngôn ngữ, khi khả
năng ngôn ngữ cơ bản và số lượng từ vựng thấp hơn so với cột mốc phát triển của
tuổi, như giảm từ vựng, cấu trúc câu giới hạn, khiếm khuyết trong diễn ngôn.
[6] Trẻ phát triển ngôn ngữ theo
trình tự chính xác nhưng với tốc độ chậm hơn mong đợi so với tuổi thực.
[7] Một sự chậm trễ trong việc
tiếp thu các kỹ năng ngôn ngữ so với các bạn cùng tuổi theo thời gian của các cột
mốc phát triển. Một trẻ chậm phát triển ngôn ngữ có thể biểu hiện sự khởi đầu
chậm hơn của việc sử dụng một kỹ năng ngôn ngữ, tốc độ tiến bộ chậm thông qua
quá trình tiếp thu. Nói chung, chậm phát triển ngôn ngữ có thể được đánh giá,
ví dụ, bởi số từ vựng ít hơn 50 từ trong 24 tháng, chỉ nói được một ít từ đôi
trong 30 tháng, hạn chế sử dụng cử chỉ và âm thanh để giao tiếp, hạn chế hiểu
biết về nghĩa của từ và không thể theo dõi hướng dẫn bằng lời nói, hạn chế chơi
với bạn.
[8]

Chậm phát triển ngôn ngữ được phân biệt với các rối loạn
ngôn ngữ (language disorders). Rối loạn ngôn ngữ được định nghĩa: một rối loạn
ngôn ngữ là sự suy yếu đáng kể trong việc tiếp thu và sử dụng ngôn ngữ qua các
phương thức (ví dụ: lời nói, ngôn ngữ ký hiệu hoặc cả hai) do khiếm khuyết khả
năng hiểu và / hoặc khả năng diễn đạt, được thể hiện qua một hoặc nhiều trong
năm lĩnh vực ngôn ngữ bất kỳ, bao gồm âm vị học, hình thái, cú pháp, ngữ nghĩa,
ngữ cảnh). Rối loạn ngôn ngữ là không đồng nhất, và bản chất và mức độ nghiêm
trọng của các rối loạn có thể thay đổi đáng kể (Hiệp hội Thính giác Ngôn ngữ
Hoa Kỳ/ASHA, 2015). Rối loạn ngôn ngữ cho thấy khả năng nói hoặc khả năng ngôn
ngữ của trẻ khác biệt cách căn bản so với trẻ bình thường.
[9]

Trẻ chậm phát triển ngôn ngữ dẫn đến khó khăn trong việc hiểu
được ngôn ngữ của người khác (ngôn ngữ tiếp nhận/ receptive language) và khó
khăn khi muốn dùng lời nói (ngôn ngữ biểu đạt/ expressive language) để diễn tả
suy nghĩ hay nhu cầu của bản thân. Ngoài ra, chậm phát triển ngôn ngữ còn biểu
hiện ở khiếm khuyết khả năng biểu cảm, sử dụng ngôn ngữ cơ thể.
[10]

Trẻ chậm phát triển ngôn ngữ có thể dẫn đến những hạn chế về
chức năng trong hiệu quả giao tiếp, tương quan xã hội (DSM -5, tr. 42). Trong
thực tế những trẻ chậm phát triển ngôn ngữ cũng khó khăn trong một số kỹ năng
như: kỹ năng tương tác hai chiều, chủ động làm bạn, chơi theo quy luật trong
nhóm, v.v.

3.2. Các nghiên cứu về
tương quan giữa chậm phát triển ngôn ngữ và thời gian tiếp xúc màn hình
 


























































Vấn đề nghiên cứu



Kết quả nghiên cứu



Tác giả và thời gian



Khi màn hình tivi đang được bật lên: màn hình tivi sẽ thu
hút sự chú ý của trẻ sơ sinh từ 6 đến 18 tháng tuổi hơn sự tương tác của
chúng đối với cha mẹ.



Đối với trẻ sơ sinh và trẻ mẫu giáo, thời gian tiếp xúc với
màn hình có tương quan tỉ lệ nghịch với thời gian tương tác với cha mẹ. Nghĩa
là trẻ càng tiếp xúc với màn hình nhiều thì càng ít tương tác với cha mẹ qua
các trò chơi để học các kỹ năng trong đó có kỹ năng ngôn ngữ.



Vandewater, Bickham, & Lee (2006)



Mối liên hệ giữa việc sử dụng các phương tiện truyền thông
và phát triển ngôn ngữ ở trẻ em dưới 2 tuổi.



Kết quả khảo sát hơn 1.000 cha mẹ của trẻ em dưới hai tuổi
cho thấy rằng những trẻ em mới biết đi chập chững xem nhiều video thì nói được
ít từ hơn. Đối với những trẻ từ 8 tháng tuổi đến 16 tháng tuổi, với gia tăng
mỗi giờ video trong một ngày, trung bình sẽ làm giảm từ 6 đến 8 từ.



Zimmerman,


Christakis, & Meltzoff (2007)



Mối tương quan giữa xem tivi và chậm ngôn ngữ.



Những trẻ em bắt đầu xem tivi trước 12 tháng tuổi với thời
gian > 2 giờ mỗi ngày có khả năng chậm ngôn ngữ gấp sáu lần so với trẻ
phát triển bình thường (nhóm đối chiếu).



Chonchaiya


& Pruksananonda (2008)



Chất lượng tương tác giảm với thời lượng xem tivi cùng với
trẻ so với việc đọc sách hay chơi cùng với trẻ.



Chất lượng tương tác giữa cha mẹ đối với con cái trong khi
cùng xem tivi với con
kém hơn thời
gian khi họ nói chuyện trực tiếp với con hay đọc sách hoặc chơi với con.



Courage,


Murphy, Goulding, Setliff (2010)


Nathanson,


& Rasmussen (2011)



Hỏi đáp các vấn đề tâm lý trẻ em.



Yếu tố tác động (môi trường xung quanh) dẫn đến chậm phát
triển ngôn ngữ ở trẻ em: Trẻ xem truyền hình quá nhiều, bố mẹ ít nói chuyện với
con, khiến trẻ chỉ nhận thông tin một chiều, không có sự phản hồi trong một
thời gian dài sẽ làm trẻ chậm nói. Thiếu tình thương của bố mẹ, trẻ bị ngược
đãi. Bố mẹ phó mặc con cho người giữ trẻ không có thời gian trò chuyện với trẻ,
trẻ không có cơ hội được nói. Trẻ bị tách ra khỏi môi trường xung quanh. Trẻ
suy dinh dưỡng, sinh đôi, sinh ba (hơn 50% các cặp sinh đôi, sinh ba bị chậm
nói).



Phạm Ngọc


Thanh (2010)



Liên hệ giữa sử dụng thời gian trên màn hình và phát triển
ngôn ngữ ở trẻ mới biết đi ở Tây Ban Nha: Một nghiên cứu cắt ngang và dọc.



Những trẻ em xem tivi > 2 giờ mỗi ngày có tỷ lệ điểm
giao tiếp thấp.



Duch, Elisa, &


Ensari (2013)



Tương quan giữa xem truyền hình và chậm ngôn ngữ ở trẻ em
mới biết đi: Bằng chứng từ một cuộc khảo sát cắt ngang ở Hàn Quốc.



Kết quả phân tích hồi quy Regression cho thấy trẻ mới biết
đi với thời lượng xem tivi:
2 giờ <
thời gian xem tivi < 3 giờ, có
khoảng 2,5 lần có nguy cơ chậm ngôn ngữ
hơn. Những trẻ với
thời lượng xem tivi
> 3
giờ có khoảng 3 lần có nhiều rủi ro chậm ngôn ngữ hơn (p
<0,05).



Byeon & Hong


(2015)



Ảnh hưởng của việc tiếp xúc với tivi đối với các kỹ năng
phát triển ở trẻ nhỏ.



Trong số 75 trẻ em thường xuyên tiếp xúc với tivi, các em
đã xem trung bình 67,4 phút/ ngày, thời điểm trước 2 tuổi. Điều này là quá mức
theo tiêu chuẩn của Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ. Xem tivi làm tăng nguy cơ chậm
phát triển nhận thức, ngôn ngữ và vận động ở trẻ. Sự chậm trễ về nhận thức,
ngôn ngữ và vận động ở trẻ có liên quan đáng kể đến việc chúng dành bao nhiêu
thời gian để xem tivi.



Ling-Yi et al.


(2015)



Tương quan giữa thời gian tiếp xúc với màn hình và chậm
ngôn ngữ ở trẻ em.



Một nghiên cứu mới từ Bệnh viện dành cho Trẻ em bị bệnh ở
Canada đã theo dõi gần 900 trẻ nhỏ từ 6 tháng tuổi đến 24 tháng tuổi. Kết quả
cho thấy những trẻ chập chững tiếp xúc với màn hình cầm tay nhiều dẫn đến chậm
trễ các kỹ năng ngôn ngữ biểu cảm. Kết quả cũng cho thấy rằng cứ sau 30 phút
tăng cường thời gian tiếp xúc với màn hình cầm tay hằng ngày sẽ tăng 49% nguy
cơ chậm trễ ngôn ngữ biểu cảm!



American


Academy of


Pediatrics (2017)



Sử dụng thiết bị truyền thông di động có liên quan đến chậm
ngôn ngữ biểu cảm ở trẻ 18 tháng tuổi.



Mẫu nghiên cứu bao gồm 893 trẻ em (tuổi trung bình 18,7
tháng). Hầu hết các bậc cha mẹ đã báo cáo con trẻ họ sử dụng 0 phút mỗi ngày
thiết bị phương tiện di động (n = 693, 77,6%). Trong khi đó, những đứa trẻ có
cha mẹ báo cáo bất kỳ việc sử dụng thiết bị phương tiện di động nào (n = 200,
22,4%), thời gian sử dụng phương tiện di động trung bình hằng ngày là 15,7
phút. Tỷ lệ chậm phát triển ngôn ngữ biểu cảm do phụ huynh báo cáo là 6,6% và
tỷ lệ chậm trễ giao tiếp do phụ huynh báo cáo là 8,8%.


Trẻ em sử dụng điện thoại di động, tăng 30 phút/1ngày tỉ lệ
thuận với tăng tỷ lệ chậm ngôn ngữ biểu cảm (báo cáo của phụ huynh).


Như thế kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ ý nghĩa
giữa việc sử dụng thiết bị truyền thông di động và chậm ngôn ngữ biểu cảm ở
trẻ 18 tháng tuổi.



Heuvel và cs. (2018)



Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng thời gian tiếp xúc với
màn hình không thúc đẩy sự phát triển ngôn ngữ của con trẻ. Ngược lại, xem tivi
hay tiếp xúc với bất kỳ màn hình nào khác như điện thoại thông minh, máy tính
bàn, thiết bị trò chơi video cầm tay, đầu video v.v. làm tăng khả năng chậm
ngôn ngữ và chất lượng giao tiếp xã hội kém. Cụ thể, về ngôn ngữ biểu đạt, hệ
quả của việc tiếp xúc nhiều với màn hình làm giảm vốn từ gấp 6 lần hoặc giảm từ
6 đến 8 từ.
[11] Tiếp xúc với màn hình với
thời lượng không phù hợp làm giảm khả năng hứng thú trong tương tác hai chiều với
cha mẹ, người chăm sóc.
[12] Chất lượng tương tác giữa
cha mẹ với con cái thông qua các chương trình trên tivi giảm so với các phương
tiện khác như đọc sách cho con nghe, chơi cùng con.
[13]

Màn hình trẻ tiếp xúc được đề cập trong các nghiên cứu trên
là tivi, điện thoại di động, hay các thiết bị điện tử cầm tay khác.

Thời lượng tiếp xúc với màn hình gây cản trở phát triển ngôn
ngữ là từ 2 giờ trở lên/ngày đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi. Gia tăng thời gian
tiếp xúc với màn hình từ 24 tháng tuổi đến 5 tuổi cũng làm giảm sự chú ý, trí
nhớ ngắn hạn và khả năng đọc kém.

Ngoài ra, vấn đề chậm ngôn ngữ do tiếp xúc sớm với màn hình
còn có thể được giải thích như sau:

Sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em xảy ra liên tục từ khi sinh
ra cho đến 5 tuổi. Giai đoạn này được biết đến như giai đoạn rất quan trọng đối
với việc tiếp thu ngôn ngữ ở trẻ.
[14] Đặc biệt, trẻ sơ sinh từ 18
đến 24 tháng tuổi là thời điểm vàng tiếp thu hay học từ ngữ, trong đó các từ
tăng theo cấp số nhân. Trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu nói được câu có hơn hai
từ.
[15]

Trẻ học cách nói chuyện và giao tiếp thông qua tương tác với
người khác. Đó là cách hữu hiệu và vẫn luôn tồn tại. Những năm đầu đời rất quan
trọng cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Đó là lúc mà bộ não của trẻ dễ tiếp
thu nhất để học ngôn ngữ mới và xây dựng các lộ trình giao tiếp mà sẽ làm nền
cho các bước phát triển khác sau này. Từ vựng quan trọng trong giao tiếp, tuy
nhiên, với sự tương tác hai chiều, trẻ còn học được ngôn ngữ biểu cảm qua nét mặt,
ngôn ngữ cơ thể và các tín hiệu phi ngôn ngữ. Một khi cửa sổ đó đóng lại, nghĩa
là cơ hội tương tác hai chiều giữa trẻ và người khác bị đóng lại thì việc học
và phát triển các kỹ năng ngôn ngữ sẽ khó khăn hơn nhiều. Hãy tưởng tượng, đứa
trẻ được nuôi dưỡng bởi những con sói trong rừng thì rất khó học cách giao tiếp
hiệu quả. Cũng thế, mỗi phút mà trẻ tiếp xúc với màn hình là một phút trẻ mất
cơ hội để học cách tương tác với người khác. Khi trẻ có một thiết bị điện tử
trước mặt, nó lặng lẽ ngồi và xem chương trình yêu thích của mình và không thấy
có nhu cầu tương tác với người khác. BS. Phạm Ngọc Thanh (2010)
[16] cho rằng khi xem
tivi, trẻ nhận thông tin một chiều trong một thời gian dài, không có cơ hội
tương tác hai chiều gây nên chậm nói.

Chậm phát triển ngôn ngữ do tiếp xúc sớm với tivi hay các loại
màn hình khác đã được chứng minh và giải thích qua các kết quả nghiên cứu như
đã được đề cập ở trên. Tuy nhiên, giới hạn của các nghiên cứu này là không đưa
ra một bức tranh hoàn chỉnh về chậm ngôn ngữ như thế nào về khả năng tiếp nhận
và biểu đạt ngôn ngữ ở trẻ trong tương quan với việc tiếp xúc sớm với màn hình.
Chưa xác định rõ các loại nội dung nào trẻ tiếp xúc thì ảnh hưởng đến chậm phát
triển ngôn ngữ ở trẻ
[17] hoặc có thể dùng video để dạy
ngôn ngữ cho trẻ không?

3. Kết luận

Thời gian tiếp xúc với màn hình càng nhiều thì khả năng phát
triển ngôn ngữ càng chậm lại. Làm ảnh hưởng đến chất lượng tương quan giữa trẻ
và người khác. Sự phát triển không đồng đều giữa ngôn ngữ tiếp nhận (hiểu và
làm theo mệnh lệnh của người khác) và ngôn ngữ biểu đạt (nói, dùng ngôn ngữ diễn
tả nhu cầu của bản thân hay ý muốn) xảy ra ở các trẻ có tiền sử xem tivi hoặc
tiếp xúc với các loại màn hình khác sớm trước 12 tháng tuổi hoặc tăng cường thời
gian xem tivi, điện thoại thông minh, máy tính bảng, v.v. trong các giai đoạn
tiếp theo. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung ở lĩnh vực ngôn ngữ biểu đạt ở
trẻ, thay vì có một bức tranh toàn diện bao gồm ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ
biểu đạt.

Trẻ em sinh ra trong bối cảnh cách mạng 4.0, không thể tránh
khỏi việc tiếp xúc với các loại phương tiện truyền thông đại chúng. Điều quan
trọng là phụ huynh, những người chăm sóc trẻ, những nhà giáo dục hiểu và hướng
dẫn cho trẻ có những lối tiếp cận phù hợp và hữu ích. Dưới đây là một số kiến
nghị cho phụ huynh, người chăm sóc và những nhà giáo dục.

Trẻ sơ sinh và trẻ dưới 2 tuổi hoàn toàn không nên tiếp xúc
với bất kỳ loại màn hình nào. Trẻ em từ 24 tháng tuổi đến 5 tuổi với thời lượng
phù hợp là không quá 1 giờ /ngày.
[18]

Chọn chương trình chất lượng cao, cùng xem video với con trẻ,
nói chuyện với con trẻ trong khi xem video, kết nối những gì con trẻ nhìn thấy
với những trải nghiệm hằng ngày của chúng. Chất lượng của chương trình và sự
tương tác hai chiều với người lớn trong khi trẻ xem video là rất quan trọng đối
với trẻ từ 24 tháng tuổi đến 5 tuổi.
[19]

Khi người lớn hướng dẫn trẻ trong thời gian trẻ tiếp cận với
màn hình và lôi cuốn trẻ vào cuộc trò chuyện hai chiều về nội dung chúng đang
xem, thì tác động bất lợi đối với chậm phát triển ngôn ngữ có thể bị vô hiệu
hóa.
[20] Kết quả này cho thấy vấn đề
quan trọng ở đây là cách trẻ tiếp xúc với màn hình như thế nào là phù hợp và
ích lợi dưới sự hướng dẫn của người lớn.

Chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ thường dẫn đến cảm xúc, hành
vi tiêu cực ở trẻ do khó khăn trong giao tiếp với người khác. Các phụ huynh,
người chăm sóc trẻ và các nhà giáo dục mầm non cần hiểu những khó khăn của trẻ
và có những cách tiếp cận phù hợp và hiệu quả.

Cần có nhiều nghiên cứu khác về các nội dung, hình thức
không phù hợp khi trẻ tiếp xúc với màn hình, dẫn đến chậm phát triển ngôn ngữ ở
trẻ em. Kế hoạch sử dụng các phương tiện truyền thông trong gia đình có con trẻ
ở tuổi mầm non. Các nghiên cứu trong tương lai được đề xuất nghiên cứu về sự
chênh lệch khác biệt giữa ngôn ngữ tiếp nhận và biểu đạt của trẻ như hệ quả của
việc tiếp xúc sớm với màn hình và với thời lượng không phù hợp. Nghiên cứu các
hệ quả về kỹ năng cá nhân, xã hội của trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Phân biệt
chậm nói và chậm ngôn ngữ do tác động của việc tiếp xúc sớm với màn hình.
Nghiên cứu các yếu tố khác có thể ảnh hưởng làm chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. American Academy of Pediatrics (2017). American
Academy of Pediatrics Announces New Recommendations for Children’s Media Use
.
Retrieved from
https://www.aap.org/en-us/about-the-aap/aap-press-room/pages/american-academy-of-pediatrics-announces-new-recommendations-for-childrens-media-use.aspx

2. American Academy of Pediatrics (2017). Handheld Screen
Time Linked with Speech Delays in Young Children
. Retrieved from https://www.healthychildren.org/English/news/Pages/Handheld-Screen-Time-Linked-with-Speech-Delays-in-Young-Children.aspx

3. American Psychology Association. (2013). Diagnostic
and Statistical Manual of Mental
Disorders – 5 (DSM-5). The American
Psychiatric Publication.

4. American Speech-Language Hearing Association. (2015). Spoken
Language Disorders
. Retrieved from www.Practice-Portal/Clinical-Topics/Spoken-Language-Disorders

5. Berk L. Child Development (9th Ed). NJ: Pearson
Education Inc, 2012.

6. Byeon, H., & Hong, S. (2015). Relationship between
Television Viewing and Language Delay in Toddlers: Evidence from a Korea
National Cross-Sectional Survey
PLoS One; 10(3): e0120663. doi:
10.1371/journal.pone.0120663.

7. Canadian Pediatric Society (2017). Screen time and
young children: Promoting health and development in a digital world.
Retrieved
from
https://www.cps.ca/en/documents/position/screen-time-and-young-children

8. Chonchaiya W., & Pruksananonda C. (2008). Television
viewing associates with delayed language development,
Acta Paediatrica, 97(7),
977-982. doi: 10.1111/j.1651-2227.2008.00831.

9. Christakis, D. A. (2009). The effects of infant media
usage: what do we know and what should we learn? Review Article.
Acta
Paediatrica, 98
, 8-16.

10. Council On Communications And Media. (2016). Media Use
in School-Aged Children and Adolescents,
American Academy of Pediatrics 138 (5),
1-8.

11. Courage, M., Murphy, A., Goulding, S., & Setliff, A.
(2010). When the television is on: The impact of infantdirected video on 6- and
18-month-olds’ attention during toy play and on parent-infant interaction.
Infant
Behavior and Development
, 33, 176-188.

12. Duch H., Elisa M.F., Ensari I. (2013). Association of
Screen Time Use and Language Development in Hispanic Toddlers: A
Cross-Sectional and Longitudinal Study,
Clinical Pediatrics, 52(9), 857
– 865.

13. Elisabeth R.McClureYulia., E.Chentsova-DuttonRachel.,
F.BarrSteven J.Holochwost1.,W. GerrodParrott. (2015). Facetime doesn’t count”:
Video chat as an exception to media restrictions for infants and toddlers.
International
Journal of Child-Computer Interaction, 6,
1 – 6.

14. F. Wallace, Nancy D. Berkman, Linda R. Watson, Tamera
Coyne- Beasley, Charles T. Wood, Katherine Cullen, Kathleen N. Lohr. (2015).
Screening for Speech and Language Delay in Children 5 Years Old and Younger: A
Systematic Review.
Pediatrics, 136 (2), 447 – 462.

15. Linebarger D.L., Walker D. (2005). Infants’ and
toddlers’ television viewing and language outcomes.
American Behavior
Science, 48,
624–645.

16. Ling-Yi, L., Rong-Ju, C., Yung-Jung, C., Yi-Jen, C.,
Hei-Mei, Y. (2015). Effects of television exposure on developmental skills
among young children.
Infant Behavior and Development, 38, 20 – 26.

17. Meta, H., Julia, M., Cornelia M., Christine, K., David
W. H., Parkin, C., Jonathon L., & Catherine S., (2018). Mobile Media Device
Use is Associated with Expressive Language Delay in 18-Month-Old Children
. Developmental
& Behavioral Pediatrics
. doi: 10.1097/DBP.0000000000000630.

18. Nathanson, A. I., & Rasmussen, E. E. (2011). TV
viewing compared to book reading and toy playing reduces responsive maternal
communication with toddlers and preschoolers.
Human Communication Research,
37(4), 465-487.

19. National Institute on Deafness and Other Communication
Disorders (NIDCD). (2017).

20. Nguyễn Bảo Uyên (2018). Tổng quan từ các kiểm tra và
đánh giá trường hợp các trẻ có nhu cầu dịch vụ Tham vấn trị liệu tại Trung tâm
giáo dục kỹ năng sống hoàn năng, Huế.

21. Phạm Ngọc Thanh. (2010). Hỏi đáp các vấn đề tâm lý trẻ
em
. Nhà xuất bản thanh niên.

22. Prasad, A.D. (2015). Language Delay Versus Language
Disorder: Is There a Problem?.
Special Education Guide Retrieved from https://www.specialeducationguide.com/blog/language-delay-versus-language-disorder/?fbclid=IwAR3807YnV1SeSLju2T1EWB-Wzo9tOCi53dwIfs4Qyl47HIgLRndjbSs4RdQ

23. Rideout, V.J., Vandewater, E.A., Wartella, E.A. (2003). Zero
to Six: Electronic Media in the Lives of Infants, Toddlers, and Preschoolers
.
The Henry J. Kaiser Family Foundation, Menlo Park, CA 94025.

24. Speech and Language Kids. (2016). Retrieved from https://www.speechandlanguagekids.com/screen-time-and-language-development

25. Steiner-Adair, C. (2013). The Big Disconnect:
Protecting Childhood and Family Relationships in the Digital Age.
New York,
NY: Harper.

26. Thùy Dương (2007). Trẻ Chậm Nói Do xem Tivi.
Retrieved from
https://dantri.com.vn/suc-khoe/tre-cham-noi-do-xem-tivi-1186467174.htm  

27. Vandewater, E. A., Bickham, D. S., & Lee, J. H.
(2006). Time well spent? Relating television use to children’s free-time
activities.
Pediatrics, 117(2), 181-191.

28. Zimmerman, F. J., Christakis, D. A. & Meltzoff, A.
N. (2007). Associations between Media Viewing and Language Development in
Children Under Age 2 Years.
The Journal of Pediatrics, 151, 364-368.

29. Zimmerman, F.J., Gilkerson, J., Richards, J.A.,
Christakis, D.A., Xu, D., Gray, S., & Yapanel, U. (2009). Teaching by
Listening: The Importance of Adult-Child Conversations to Language Development.
Pediatrics, 124(1), 342-349. doi: 10.1542/ peds.2008-2267.

Trích Bản
tin Hiệp Thông
/ HĐGMVN, Số 125 (Tháng 7 & 8 năm
2021)

WHĐ (17.01.2022)



[1] Rideout,
V.J., Vandewater, E.A., Wartella, E.A. (2003). Zero to Six: Electronic Media in
the Lives of Infants, Toddlers, and Preschoolers.

[2] Christakis,
D. A. (2009). The effects of infant media usage: what do we know and what
should we learn?.

[3] Thùy Dương
(2007). Trẻ Chậm Nói Do xem Tivi. Retrieved from
https://dantri.com.vn/suc-khoe/tre-cham-noi-do-xem-tivi-1186467174.html.

[4] Nguyễn Bảo
Uyên (2018). Tổng quan từ các kiểm tra và đánh giá trường hợp các trẻ có nhu cầu
dịch vụ Tham vấn trị liệu tại Trung tâm giáo dục kỹ năng sống hoàn năng, Huế.

[5] Speech and Language Kids. (2016). Retrieved from https://www.speechandlanguagekids.com/screen-time-and-language-development

[6] American
Psychology Association. (2013). Diagnostic and Statistical Manual of Mental
Disorders – 5 (DSM-5), tr.42.

[7] F. Wallace, và cộng sự. (2015). Screening for Speech
and Language Delay in Children 5 Years Old and Younger.

[8] Prasad,
A.D. (2015). Language Delay Versus Language Disorder: Is There a Problem?. Special
Education Guide.

[9] F. Wallace, và cộng sự (2015).

[10] National Institute on Deafness and Other
Communication Disorders (NIDCD). (2017).

[11] Zimmerman, F. J., và cộng sự.(2007). Associations
between Media Viewing and Language Development in Children Under Age 2 Years;
Chonchaiya W., & Pruksananonda C. (2008). Television viewing associates
with delayed language development.

[12] Vandewater, E. A., Bickham, D. S., & Lee, J. H.
(2006). Time well spent? Relating television use to children’s free-time
activities.

[13] Courage, M., và cộng sự. (2010). When the television
is on: The impact of infantdirected video on 6- and 18-month-olds’ attention
during toy play and on parent-infant interaction; Nathanson, A. I., &
Rasmussen, E. E. (2011). TV viewing compared to book reading and toy playing
reduces responsive maternal communication with toddlers and preschoolers.

[14] Berk L. Child Development (9th Ed). NJ: Pearson
Education Inc, 2012.

[15] Linebarger D.L., Walker D. (2005). Infants’ and toddlers’
television viewing and language outcomes.

[16] Phạm Ngọc Thanh. (2010). Hỏi đáp các vấn đề tâm lý trẻ
em. Nhà xuất bản thanh niên.

[17] Rideout, V.J., Vandewater, E.A., Wartella, E.A.
(2003). Zero to Six: Electronic Media in the Lives of Infants, Toddlers, and
Preschoolers.

[18] Canadian Pediatric Society (2017). Screen time and
young children: Promoting health and development in a digital world.

[19] American
Academy of Pediatrics (2017). American Academy of Pediatrics Announces New
Recommendations for Children’s Media Use.

[20] Zimmerman, F.J., và cộng sự. (2009). Teaching by
Listening: The Importance of Adult-Child Conversations to Language Development.